Thứ Năm, 28 tháng 4, 2016

KIẾN THỨC KHOA HỌC PHỔ THÔNG - SỨC KHOẺ- PHÒNG TRỊ BỆNH

ĐỀ PHÒNG THOÁT VỊ ĐĨA ĐỆM
Thoát vị đĩa đệm là bệnh hay gặp ở người trong độ tuổi lao động. Bệnh không gây tử vong, nhưng lại ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cuộc sống.
Do lao động không hợp lý
Thoát vị đĩa đệm là tình trạng đĩa đệm bị trượt ra khỏi vị trí bình thường của nó. Bình thường đĩa đệm nằm chính giữa hai đốt xương trên - dưới của cột sống. Khi có yếu tố tác động, đĩa đệm bị trượt ra khỏi vị trí này và gây ra bệnh cảnh thoát vị đĩa đệm. Vì gây ra đau lưng, bệnh làm người ta khó đi lại, không thể lao động. Thậm chí, thoát vị đĩa đệm cản trở cả những tình huống sinh hoạt đơn giản nhất: không ngồi, cúi, và không nằm được. Do đó bệnh làm suy giảm nghiêm trọng chất lượng cuộc sống.
Yếu tố chính gây thoát vị đĩa đệm chủ yếu là do lực cơ học của lao động khi làm việc sai tư thế. Khi lao động sai tư thế, tư thế cột sống bị lệch vẹo và đĩa đệm bị di chuyển từ vị trí trung tâm ra ngoại biên để phân tán lực. Nếu không được phục hồi trở về trạng thái bình thường thì đĩa đệm sẽ ở lại vị trí ngoại vi mãi mãi và trở thành bệnh lý.
Mang vác bao nhiêu kg là vừa?
Để giảm thiểu nguy cơ bị thoát vị đĩa đệm, cần những yếu tố sau: Lao động vừa sức mình - điều này là quan trọng vì tải trọng cột sống - đĩa đệm chỉ chịu được một gánh nặng nhất định, nên nếu bạn quá cố gắng sẽ làm hư hỏng hệ thống giải phẫu này và gia tăng nguy cơ bệnh lý. Tính trung bình, với sức vóc người VN, chỉ mang vác dưới 30 kg, nhất định không được vượt 50 kg (lúc này gần 100% sức tải của cơ thể). Với các vật nặng, nhất thiết phải được khiêng bởi nhiều người hoặc sử dụng máy móc, xe nâng thay thế. Không sử dụng lực cơ học đột ngột mà phải san sẻ lực từ từ, phân chia công việc từ ít đến nhiều, từ thấp lên cao, kẻo “khục” cột sống; làm việc đúng tư thế - đây là điều rất cần thiết. Bởi, khi làm việc đúng tư thế, lực cơ học luôn có hướng từ trên xuống dưới, và đĩa đệm không bị chèn đẩy vị trí. Nó chỉ chịu một lực nén từ trên xuống dưới và do vậy, không bị thoát vị. Tư thế lao động đúng là tư thế cột sống thẳng, kể cả khi mang vác những vật nhẹ, khi bưng bê, khi thực hiện các công việc trong sinh hoạt như, giặt giũ, bế trẻ em, thậm chí là lái ô tô...
Tiếp nữa là có chế độ làm việc hợp lý, để điều hòa sự “lao động” và hồi phục của đĩa đệm. Theo ước tính, đĩa đệm chỉ chịu được trọng tải trong 2 giờ là tối đa, và nó cần 15 - 20 phút nghỉ ngơi để tái hấp thu “dịch phục hồi”. Do vậy khi lao động, nếu không nghỉ ngơi xen kẽ, thì đĩa đệm không được phục hồi hoặc được phục hồi không đầy đủ khiến nó nhanh chóng bị thoái hóa. Sau 2 giờ lao động nên được nghỉ ngơi tối thiểu 15 phút. Thời gian này tuy ngắn ngủi, nhưng lại có tác dụng làm bền sức mạnh cho đĩa đệm.
Bác sĩ Hồng Phúc
(Học viện Quân y)

TÁC HẠI CỦA CHẾ ĐỘ DINH DƯỠNG KÉM
Theo các bác sĩ, chuyên gia dinh dưỡng Mỹ, một chế độ ăn uống kém dinh dưỡng có thể khiến trẻ hay đau ốm và ảnh hưởng tới việc học hành sau này của trẻ.
Báo Tehran Times dẫn lời một bác sĩ nhi cho biết chế độ dinh dưỡng kém lúc nhỏ có thể khiến trẻ dễ bị táo bón kinh niên, đau bụng, thiếu chất sắt, mắc bệnh tiểu đường týp 2 và bị chứng huyết áp cao. Trẻ sẽ luôn bị thiếu vitamin và chất xơ nếu những bữa ăn không có rau củ và hoa quả. Ăn uống thiếu chất trong thời gian dài có thể làm chậm sự phát triển trí não của trẻ, nhất là trong những giai đoạn tăng trưởng quan trọng trước 3 tuổi, từ đó có thể ảnh hưởng đến kết quả học tập sau này.
H.Y

BỆNH UNG THƯ PHỔI
Ung thư phổi là gì?
Ung thư phổi bắt nguồn từ những mô của phổi, thường là từ lớp lót tế bào túi khí. Có hai loại chính là ung thư phổi tế bào nhỏ và ung thư tế bào phổi không phải tế bào nhỏ. Những loại này được chẩn đoán dựa trên việc quan sát tế bào dưới kính hiển vi.
Hơn 80% ung thư phổi thuộc loại ung thư không phải tế bào nhỏ. Trong đó được chia thành ba loại nhỏ, bao gồm ung thư biểu mô tế bào vẩy, ung thư biểu mô tuyến và ung thư biểu mô tế bào lớn.
Nguyên Nhân Gây Bệnh là gì?
Khói thuốc là một nguy cơ quan trọng nhất và nguyên nhân chủ yếu nhất dẫn đến ung thư phổi. Đây là nguyên nhân gây ra 80% số trường hợp ung thư phổi trên toàn thế giới. Những hợp chất nguy hại trong thuốc lá phá hủy các tế bào phổi. Qua thời gian, những tế bào bị phá hủy đó bị ung thư. Đó là lý do tại sao hút thuốc điếu, thuốc tẩu, hoặc xì-gà có thể gây ung thư phổi và những người không hút thuốc hít phải những chất trên cũng bị mắc ung thư. Một người hít càng nhiều khói thuốc thì nguy cơ mắc ung thư phổi càng lớn.
Những nguyên nhân khác có thể gây ung thư phổi bao gồm chất rađon (khí ga hoạt tính), amiăng, thạch tín, crom, ni-ken và ô nhiễm không khí. Những người có thành viên trong gia đình bị ung thư phổi cũng có khả năng bị nhiễm bệnh trên. Những người bị ung thư phổi có nguy cơ phát triển ung bướu phổi lần hai. Những người trên 65 tuổi khi chẩn đoán thường mắc bệnh ung thư phổi.
Triệu chứng
Ung thư phổi giai đoạn đầu thường không có triệu chứng cụ thể. Nhưng khi bệnh phát triển, thường có những dấu hiệu sau:
- Ho không khỏi, ngày càng nặng hơn - Hô hấp có vấn đề, chẳng hạn như thở dốc - Đau ngực kéo dài - Ho ra máu - Khàn giọng - Thường xuyên bị nhiễm trùng phổi, như bị viêm phổi - Luôn cảm thấy vô cùng mệt mỏi - Giảm cân không rõ nguyên nhân
Thường thì các triệu chứng này không phải do ung thư. Các vấn đề khác về sức khỏe cũng có thể gây ra các triệu chứng này. Ai có những triệu chứng như trên nên đến gặp bác sĩ để được chẩn đoán và điều trị sớm.
Chẩn đoán
Cách tốt nhất để ngăn ngừa ung thư phổi là bỏ, hoặc không bao giờ hút thuốc lại nữa!
Nếu quý vị có những dấu hiệu bị ung thư phổi, các bác sĩ sẽ tìm ra liệu nó bắt nguồn từ ung thư hay do tình trạng sức khỏe khác. Người bệnh được yêu cầu xét nghiệm máu và làm một số chẩn đoán:
- Kiểm Tra Thể Trạng - Chụp X-quang Vùng Ngực - Chụp Cắt Lớp Điện Toán (CT)
Bác sĩ có thể yêu cầu người bệnh làm thêm một số xét nghiệm sau để lấy bệnh phẩm:
- Xét nghiệm đờm - Chọc dịch màng phổi - Nội soi phế quản - Chọc hút bằng kim - Mở lồng ngực
Chẩn Đoán Ung Thư Phổi Bằng Cách Nào?
Để có kế hoạch điều trị tốt nhất, bác sĩ cần xác định được loại ung thư phổi và giai đoạn phát triển của bệnh. Việc xác định thời kỳ của bệnh được tiến hành rất cẩn thận để tìm rõ xem bệnh đã lan ra đến những phần nào trên cơ thể. Ung thư phổi lan nhanh nhất đến các hạch bạch huyết, não, xương, gan, và tuyến thượng thận.
Các Giai Đoạn Của Ung Thư Phổi Tế Bào Nhỏ
Các bác sĩ mô tả ung thư phổi tế bào nhỏ có hai giai đoạn:
- Giai đoạn hạn chế: Ung thư được phát hiện ở một lá phổi và những mô gần kề.
- Giai đoạn mở rộng: Ung thư được phát hiện tại những mô ở vùng ngực bên ngoài phổi. Hoặc ung thư được phát hiện ở những cơ quan xa hơn.
Các Giai Đoạn của Ung Thư Phổi Không Phải Tế Bào Nhỏ
* Giai đoạn chưa phát triển rõ ràng: Các tế bào ung thư phổi được tìm thấy trong đờm hoặc trong mẫu nước thu được từ nội soi phế quản, nhưng không thể nhìn thấy những khối u trong phổi.
* Giai đoạn 0: Các tế bào ung thư chỉ được tìm thấy ở lớp đệm gần phổi nhất. Khối u không phát triển thông qua lớp đệm này. Khối u ở giai đoạn này được gọi là ung thư biểu mô.  Khối u không phải là ung thư lây lan.
* Giai đoạn I: Khối u phổi không phải là ung thư lây lan. Khối u phát triển thông qua lớp đệm gần nhất của phổi, dần đi vào sâu những mô phổi bên trong. Các tế bào ung thư không được tìm thấy ở những hạch bạch huyết gần kề.
* Giai đoạn II: U phổi có nhiều kích cỡ khác nhau nhưng sẽ không lây lan sang những bộ phận xung quanh. Các tế bào ung thư không được tìm thấy ở những hạch bạch huyết gần kề.
* Giai đoạn III: U phổi có thể lan đến những cơ quan gần kề, lồng ngực, cơ hoành, các mạch lớn hoặc các u huyết cùng phía hoặc đối diện với khối u.
* Giai đoạn IV: Các khối u ác tính sản sinh được tìm thấy tại các thùy phổi hoặc tại lá phổi khác. Các tế bào ung thư được tìm thấy tại những bộ phận khác của cơ thể như não, tuyến thượng thận, gan, hoặc xương.
Điều Trị Ung Thư Phổi
Tùy vào từng giai đoạn phát triển của bệnh mà bác sĩ xác định mục tiêu của việc điều trị là chữa trị, kiềm chế bệnh để kéo dài sự sống hoặc kiểm soát triệu chứng và ngăn ngừa bệnh tật nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống. Phương thức chữa trị có thể được tiến hành đơn lập hoặc kết hợp giữa Phẫu thuật, Xạ trị Hóa Trị, và Chữa bệnh bằng thuốc theo mục tiêu.
Đón xem chương trình “ Hành trình hi vọng”, những cậu chuyện đặc biệt được chia sẻ từ Trung Tâm Điều Trị Ung thư Parkway, sắp được phát sóng trên đài truyền hình TP.HCM
Parkway tại Việt Nam:
+ Hà Nội: Tel: (84) 4747 2729 / (84) 4747 2730 + Đà Nẵng: Tel: (84) 5 11369 2998 / (84) 5 11369 2999 + TP Hồ Chí Minh: Tel: (84) 8823 0096 / (84) 8823 0092
THÔNG TIN DỊCH VỤ
Nguồn thông tin được cung cấp từ
trung tâm Ung bướu Parkway Singapore


 BÙ NƯỚC CHO TRẺ BỊ TIÊU CHẢY
Con tôi hiện nay được 10 tháng rưỡi, hai hôm nay cháu bị đi ngoài ngày khoảng 10 lần, phân sống, có nhầy, hạt, đi phải rặn (không có máu), ho nặng tiếng, mỗi lần ho phải thở như người hen, kèm theo sổ mũi. Khoảng một tháng trước, cháu bị lỵ trực khuẩn. Tình trạng trên có liên quan gì đến chế độ dinh dưỡng của bé không? Tôi cho cháu đi khám, bác sĩ kê thuốc Cefixime, Royal, Medexa.thuyvien...@gmail.com
- Bác sĩ chuyên khoa 2 Nguyễn Thị Thu Hậu, Trưởng khoa Dinh dưỡng  Bệnh viện Nhi đồng 2 TPHCM, trả lời: Con bạn đang có bệnh lý tại đường hô hấp và đường tiêu hóa. Theo như triệu chứng bạn mô tả thì nhiều khả năng cháu bị viêm phế quản và tiêu chảy (chưa rõ là tiêu chảy cấp hay tiêu chảy nhiễm trùng, có thể cần xét nghiệm phân để xác định). Tùy theo tác nhân gây bệnh, bác sĩ sẽ có thuốc điều trị cho cháu thích hợp. Cefixim là một loại kháng sinh, có tác dụng tại đường hô hấp và tiêu hóa. Còn dexamethasone là một loại corticoid có tác dụng kháng viêm. Bạn có thể trao đổi về chẩn đoán và thông tin về thuốc điều trị với bác sĩ điều trị, như vậy sẽ chính xác hơn.
Tuy nhiên, khi trẻ bị tiêu chảy, điều quan trọng nhất là phải bù đủ lượng nước mất bằng dung dịch bù nước, cho cháu ăn nhiều bữa nhỏ để bảo đảm dinh dưỡng và giữ vệ sinh tốt để tránh tái nhiễm. Bạn cần cho bé đến bệnh viện khám lại ngay nếu cháu bệnh nặng hơn, phân có máu, khát nước nhiều hoặc nôn ói nhiều, tiểu ít, bứt rứt, li bì, mắt trũng, môi khô...
Khi trẻ bị viêm đường hô hấp, bạn phải giữ ấm cho trẻ, cho trẻ uống đủ nước làm loãng đàm, làm thông thoáng đường hô hấp bằng cách hút mũi, dinh dưỡng đầy đủ để tăng khả năng chống bệnh. Bạn cũng cần theo dõi những dấu hiệu nặng dể cho trẻ đi khám lại ngay như thở nhanh, thở mệt, thở co kéo nhiều, tím môi... Bạn cần tuân thủ y lệnh của bác sĩ điều trị. Chế độ dinh dưỡng không thích hợp hoặc không bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm có thể gây ra rối loạn tiêu hóa hay ngộ độc thức ăn.
Theo Người Lao Động


ÁNH NẮNG CÓ TÁC DỤNG TỐT CHO NGƯỜI TRẦM CẢM
Nghiên cứu mới đây các nhà khoa học tại Đại học Alabama ở thành phố Birmingham (Đông Nam nước Mỹ) cho thấy rằng bầu trời ít nắng có thể khiến những người bị trầm cảm thiếu minh mẫn về trí nhớ, tư duy và các chức năng nhận thức khác.
Theo hãng tin Reuters, nghiên cứu đã xem xét mối tương quan giữa dữ liệu về thời tiết của cơ quan NASA và điểm số kiểm tra về khả năng nhận thức của 14.000 người Mỹ từ 45 tuổi trở lên. Kết quả cho thấy những người bị trầm cảm ở khu vực ít nắng có nguy cơ bị giảm sút về trí nhớ và các chức năng nhận thức khác cao gấp hai lần so với nhóm người ở vùng có nhiều nắng. Lâu nay, người ta đã biết mối liên hệ giữa ánh nắng và hội chứng dễ xúc động theo mùa (SAD) – một dạng trầm cảm mà các triệu chứng thay đổi theo mùa, thường tăng nặng vào cuối thu, đông và được cải thiện hơn khi trời nhiều nắng. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu lý giải tại sao ánh nắng lại ảnh hưởng đến khả năng tư duy và trí nhớ. Lần này, các nhà khoa học cho rằng tiếp xúc với ánh nắng làm tăng hàm lượng hormone melatonin và serotonin trong cơ thể - hai dạng hormone này có ảnh hưởng đến tính khí và nhận thức của con người.
Theo Tr. Lâm / Người Lao Động



PHÒNG BỆNH TIM MẠCH
Bệnh lý tim mạch là nguyên nhân hàng đầu trong mọi nguyên nhân gây tử vong. Ngoài yếu tố bẩm sinh, đa số trường hợp là do sai lầm trong lối sống.
Bệnh tim mạch ngày nay đã xuất hiện ở lứa tuổi trẻ hơn nhiều so với trước đây. Vừa qua, bệnh viện tiếp nhận một bệnh nhân chỉ mới 40 tuổi, nhập viện vì đột ngột đau ngực trái dữ dội, kèm đổ nhiều mồ hôi và khó thở. Kết quả khám bệnh cho biết bệnh nhân T. bị nhồi máu cơ tim tối cấp, cần phải thông mạch vành. Anh T. là chủ doanh nghiệp, thường xuyên tiếp đãi khách nên phải nhậu nhẹt. Anh có thói quen hút thuốc khoảng 20 điếu mỗi ngày, ít vận động nên bị thừa cân.
Trước đây anh T. vẫn thấy khỏe bình thường, chỉ mới lần khám sức khỏe tổng quát đầu năm nay cho thấy lượng đường trong máu hơi tăng, cholesterol tăng cao, đo điện tim thấy có dấu hiệu thiếu máu cơ tim nhẹ. Vì bận công việc nên anh T. bỏ qua không điều trị tích cực. Ngoài ra anh T. có người cha chết vì bệnh xuất huyết não. Anh T. có nguy cơ mắc bệnh tim mạch rất cao mà không biết.
Có những yếu tố nguy cơ không thay đổi được, tuy nhiên cũng có các yếu tố nguy cơ có thể ngăn chận. Hiểu được điều này ta có thể chủ động phòng ngừa bệnh.
1. Các yếu tố nguy cơ tim mạch không thể thay đổi được, bao gồm: tuổi, giới, di truyền. Đây là các yếu tố nguy cơ mà nền y học đang bó tay.
- Tuổi: càng cao tuổi nguy cơ bệnh tim mạch càng tăng. Một thống kê ở Mỹ cho thấy cứ năm người chết do bệnh tim mạch thì có tới bốn người trên 65 tuổi.
- Giới tính: trong độ tuổi từ nhỏ đến trung niên, nam bị bệnh tim mạch nhiều hơn nữ, nhưng đến tuổi mãn kinh thì tỉ lệ bệnh tim mạch ở nữ xấp xỉ ở nam.
- Di truyền: Nhiều nghiên cứu cho thấy nếu bố mẹ hay anh chị em bị bệnh tim thì con cái, anh chị em ruột có nhiều nguy cơ mắc bệnh.
2. Các yếu tố nguy cơ tim mạch có thể thay đổi được:
- Thuốc lá: ảnh hưởng đến mọi lứa tuổi, là nguyên nhân hay gặp gây nhồi máu cơ tim ở tuổi dưới 40. Người hút thuốc lá có nguy cơ bị bệnh tim mạch cao gấp 2-4 lần người không hút thuốc
- Cholesterol máu cao, LDL và cholesterol toàn phần cao, HDL thấp sẽ làm tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim.
- Béo phì: người béo phì dễ bị tăng cholesterol máu, tăng huyết áp và là nguy cơ của bệnh tim mạch. Nhất là béo phì kèm theo béo bụng.
- Ít hoặc không vận động: Khi vận động cơ thể tăng tiêu hao năng lượng, mọi cơ quan tăng cường hoạt động giúp thải trừ các chất độc hại ra ngoài, làm giảm cholesterol, hạ huyết áp. Vận động làm tăng sức mạnh của cơ bắp, làm tim và mạch máu đàn hồi tốt hơn, dẻo dai hơn. Vì vậy người ít hoặc không vận động có nhiều nguy cơ bị bệnh tim mạch hơn so với người năng vận động, rèn luyện cơ thể.
- Tăng huyết áp: Ở người bệnh tăng huyết áp, thành mạch máu thường bị vữa xơ nên rất kém co giãn. Do đó để tống máu đi, tim phải co bóp mạnh hơn. Hệ quả là cơ tim sẽ dày lên và cứng hơn, sự cố gắng liên tục sẽ làm tim suy yếu. Do áp lực lên thành động mạch tăng cùng với sự vữa xơ, mạch máu dễ bị vỡ ở những nơi xung yếu, tăng nguy cơ tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim.
- Bệnh đái tháo đường: Theo một nghiên cứu, hơn 65% người đái tháo đường bị tử vong vì bệnh tim mạch.
- Bị stress làm tăng nhịp tim và tăng huyết áp. Người bệnh tim mà liên tục chịu ảnh hưởng của stress thì tần số cơn đau thắt ngực tăng lên.
- Rượu làm tăng huyết áp, tăng triglicerid máu, gây nguy cơ nhồi máu cơ tim và đột quỵ. Tuy nhiên uống rượu vang đỏ đều đặn một ly hằng ngày lại tốt cho tim mạch.
3. Yếu tố nguy cơ ở phụ nữ:
Uống thuốc viên ngừa thai sẽ làm tăng nhẹ nguy cơ nhồi máu cơ tim sớm ở nữ giới, nếu kèm thêm hút thuốc lá thì nguy cơ này tăng lên rất nhiều lần.
Trong giai đoạn mang thai nếu bị tiền sản giật, đái tháo đường, hoặc người sinh con nhẹ cân cũng tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim sớm.

Nhóm có nguy cơ thẤp

Nhóm có nguy cơ cao

Nhóm có nguy cơ trung bình

NhẬn biẾt

Khi có tất cả các yếu tố sau đây:
không hút thuốc lá, cholesterol toàn phần dưới 200mg/dL và HDL trên 40mg/dL, huyết áp tâm thu dưới 120mmHg và huyết áp tâm trương dưới 80mmHg, không bị đái tháo đường, gia đình không có ai sớm mắc bệnh mạch máu
Khi có bất kỳ yếu tố nào sau đây:
đã biết bị bệnh động mạch vành hay bệnh mạch máu khác, bị bệnh đái tháo đường type 2, trên 65 tuổi kèm theo một hoặc nhiều yếu tố (hút thuốc lá, tăng huyết áp, rối loạn mỡ trong máu, béo phì)
Khi không thể xếp vào nhóm nguy cơ thấp hoặc nhóm nguy cơ cao

GIẢI pháp

Không cần điều trị. Chỉ cần tiếp tục duy trì lối sống khỏe mạnh (ăn uống hợp lý, tập luyện thể lực, không bị béo phì)

Cần điều trị càng sớm càng tốt

Cần thay đổi lối sống để có được như người có nguy cơ thấp, đồng thời cũng cần được kiểm tra thêm xem có bệnh động mạch vành hay không
Theo Bs Nguyễn Thanh Hải / Tuổi Trẻ
(Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương)




Không có nhận xét nào: