Quan trọng của
khí hải (đan điền)
1 .HUYỆT KHÍ HẢI
TÊN HUYỆT :
• Khí = nguyên khí. Hải = biển.
• Huyệt là biển của nguyên khí bẩm sinh, khí ở đây trong tình trạng phong phú và phát triển nhất, là nguồn năng lượng cần thiết cung cấp cho sự sống. Đây là huyệt căn bản để bồi bổ cho cơ thể, vì vậy gọi là Khí Hải (Trung Y Cương Mục)
• Huyệt là biển của nguyên khí bẩm sinh, khí ở đây trong tình trạng phong phú và phát triển nhất, là nguồn năng lượng cần thiết cung cấp cho sự sống. Đây là huyệt căn bản để bồi bổ cho cơ thể, vì vậy gọi là Khí Hải (Trung Y Cương Mục)
VỊ TRÍ :
Lỗ rốn thẳng xuống 1,5 thốn.
CƯỜNG TRÁNG YÊU
HUYỆT KHÍ HẢI ( huyệt khí hải
có tác dụng cường tráng vùng lưng)
Khí hải còn có tên là đan điền hoặc
đan táo( bếp lò ). Là bể của khí, là hội của nguyên khí, là gốc rễ của hô hấp,
là yếu huyệt của hạ tiêu, cho nên khí hóa đều do đây mà phát ra. Cho nên tác
dụng là bổ ích chân nguyên, ôn chấn thận dương, giống như củi dưới đáy nồi cho
nên có tác dụng ôn tỳ vị trợ vận hóa, khiến cho thủy cốc được hủ thục ( nấu
chín , tiêu hóa ), lại thêm tác dụng khí hóa bàng quang, khiến cho khí hóa bay
lên, tân dịch được phân bố ra 4 phương, trọc âm được xuất ra.
Khí hải là hội của nguyên khí, vậy
nguyên khí là gì? nguyên khí có tên khác là chân khí, chân khí bẩm thụ tinh khí
của tiên thiên, được tinh khí của hậu thiên tư dưỡng bổ sung hóa sinh mà thành.
<< nội kinh>> viết : “ chân khí, bẩm thụ ở trời, cùng với cốc khí
có tác dụng mạnh thân thể”.
Sinh lý tác dụng của chân khí: chân
khí là nguồn động lực của sinh mệnh hoạt động của con người, các tạng phủ và sự
hoạt động của toàn thân đều dựa vào sự khí hóa. << tố vấn – thượng cổ
thiên chân luận>>: “ điềm đạm hư vô, chân khí tòng chi, tinh thần nội
thủ, bệnh an tòng lai” tức là “ điềm đạm hư vô thì chân khí theo đó mà sinh ra,
tinh thần nội thủ thì bệnh theo đó mà tiêu tan”.
Quan hệ giữa khí và tinh chủ yếu có
hai điểm sau :
+ khí sinh tinh: trong thân thể có
tinh khí hữu hình, như tinh khí của thủy cốc, vinh khí, can khí. Thận tàng tinh
khí đều do các tạng phủ sinh hóa mà đưa đến, khí mà ly khai tạng phủ thì tinh
không thể được sinh ra. Như khí xa lìa tỳ vị thì tinh vi của thủy cốc làm sao
hóa sinh được, cho nên tinh khí không hội lại và không bổ sung được.
+ tinh hóa khí: công năng hoạt động
của con người là vô hình, đó là do vật chất cửa tinh khí mà ra. Khí là do tinh
sản sinh và thôi động, và ôn chiếu phòng vệ, cố nhiếp, thăng giáng tác dụng,
vinh dưỡng. Đó là các tác dụng phản ánh sinh hóa tinh khí. Bởi vậy nói khí sinh
tinh, tinh hóa khí là nhân quả tuần hoàn, hỗ trợ nhau, âm dương hỗ căn, khí hải
huyệt là hội của nguyệt khí, lại có tác dụng bổ thận cố dương cường yêu.
CÔNG NĂNG: THĂNG DƯƠNG BỔ KHÍ , ÍCH THẬN CỐ TINH.
PHỐI NGŨ :
+ khí hải phối với quan nguyên, trung
cực: thứ đều gần tác dụng với nhau, cho nên trên lâm sàng rất hay dùng cùng
nhau. công năng của phân ra 3 loại như dưới đây:
Khí hải: nhâm mạch, cường yêu. Thăng
dương bổ khí, ích thận cố tinh.
Quan nguyên: nhâm mạch, mộ huyệt của
tiêu trường kinh . ôn thận cố tinh, bổ khí hồi dương, thông điều xung nhâm,
điều khí hòa huyết.
Trung cực: nhâm mạch, huyệt mộ của
bàng quang kinh. tráng nguyên dương, điều kinh huyết, lợi bàng quang, lý hạ
tiêu.
Nếu khí hải quan nguyên, trung cực
dùng 3 huyệt đồng thời thì có tác dụng ôn thận trợ dương, sơ điều khí cơ, thông
điều bàng quang, điều kinh dưỡng huyết. chủ trị tỳ thận bất túc, khí hư tiểu
tiện bất lợi, cùng với nam tử thận hư tinh khuy, phụ nữ huyết khuy kinh nguyệt
không điều hoa.
Nguồn: Sưu tầm trên Internet (không ghi tên tác giả)
1 nhận xét:
"....không giữ nguyên khí, thuốc bổ vô ích..." (Khổng Tử)
Đăng nhận xét