Chủ Nhật, 5 tháng 8, 2012

CÁC NHÀ TIÊN TRI NỔI TIẾNG TRÊN THẾ GIỚI

NGUỒN INTERNET- DINHDUC SƯU TẦM Mời các bạn thưởng thức lời tiên tri của các nhà Tiên Tri nổi tiếng thế giới:

1. Việt Nam - Sấm Trạng Trình

SAU ĐÂY LÀ CÁC GIAI THOẠI VỀ TÀI TIÊN TRI CỦA TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM

CHÂN DUNG TT NGUYỄN BỈNH KHIÊM

(VĂN MIẾU TRẤN BIÊN- BIÊN HÒA- ĐỒNG NAI)

Tiên tri

Khi theo học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng, ông được truyền cho quyển Thái Ất thần kinh từ đó ông tinh thông về lý học, tướng số... Sau này, dù Nguyễn Bỉnh Khiêm không còn làm quan nhưng vua Mạc Hiến Tông (Mạc Phúc Hải) vẫn phong cho ông tước Trình Tuyền hầu vào năm Giáp Thìn (1544), ngụ ý đề cao ông có công khơi nguồn ngành lý học, giống như Trình Y Xuyên, Trình Minh Đạo bên Trung Hoa. Sau đó được thăng chức Thượng thư bộ Lại tước hiệu Trình quốc công.
Nhờ học tính theo Thái Ất, ông tiên đoán được biến cố xảy ra 500 năm sau này. Người Trung Hoa khen Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là "An Nam lý số hữu Trình Tuyền". Ông tinh thông về thuật số, được dân gian truyền tụng và suy tôn là "nhà tiên tri" số một của Việt Nam. Ông đã cho ra đời hàng loạt những lời tiên tri cho hậu thế mà người đời gọi là "Sấm Trạng Trình".
Tương truyền, ông là người đã đưa ra lời khuyên giúp các nhà Nguyễn, Mạc, Trịnh, Lê. Khi Nguyễn Hoàng sợ bị anh rể Trịnh Kiểm giết, ông khuyên nên xin về phía nam với câu "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân" (có tài liệu viết là "khả dĩ dung thân") nghĩa là "Một dải Hoành Sơn có thể dung thân lâu dài". Nguyễn Hoàng nghe theo và lập được nghiệp lớn, truyền cho con cháu từ đất Thuận Hoá. Lúc nhà Mạc sắp mất cũng sai người đến hỏi ông, ông khuyên vua tôi nhà Mạc "Cao Bằng tuy thiểu, khả diên sổ thế" (tức Cao Bằng tuy nhỏ, nhưng có thể giữ được vài đời). Nhà Mạc theo lời ông và giữ được đất Cao Bằng gần 80 năm nữa. Đối với Lê - Trịnh, khi vua Lê Trung Tông chết không có con nối, Trịnh Kiểm định thay ngôi nhà Lê nhưng còn sợ dư luận nên sai người đến hỏi ông. Ông nói với chú tiểu, nhưng thực ra là nói với bề tôi họ Trịnh: "Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản" (ý nói giữ là bề tôi của các vua Lê thì lợi hơn). Trịnh Kiểm nghe theo, sai người tìm người tôn thất nhà Lê thuộc chi Lê Trừ (anh Lê Lợi) đưa lên ngôi, tức là vua Lê Anh Tông. Họ Trịnh mượn tiếng thờ nhà Lê nhưng nắm thực quyền điều hành chính sự, còn nhà Lê nhờ họ Trịnh lo đỡ cho mọi chuyện chính sự, hai bên nương tựa lẫn nhau tồn tại tới hơn 200 năm. Bởi thế còn có câu: "Lê tồn Trịnh tại".
Tiên tri về nhà Tây Sơn dấy nghiệp:
Hai câu:
"Chấn cung xuất nhật
Đoài cung vẩn tinh"
Nghĩa là:
Mặt trời xuất hiện ở phương Đông
Sao sa ở phương Tây"
Theo bát quái, có tám cung là: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Chấn thuộc về phương Đông. Theo Kinh Dịch cung Chấn thuộc về người trên. Ý muốn nói người anh cả của họ Nguyễn Tây Sơn là Nguyễn Nhạc sẽ dấy nghiệp. Sao sa ở phương Tây: ý nói nhà Tây Sơn xuất hiện.
Hai câu:
"Hà thời biện lại vi vương
Thử thời Bắc tận, Nam trường xuất bôn"
Nghĩa là:
Làm thế nào thời ấy tên Biện Lại làm vua.
Lúc ấy Bắc cũng hết, Nam cũng chạy.
Hai câu trên đây ám chỉ Nguyễn Nhạc tên Biện Lại ở huyện Vân Đồn (Bình Định) khởi nghĩa dấy binh tự xưng là Tây Sơn Vương. Nhà Tây Sơn nổi lên diệt Chúa Trịnh ở phương Bắc, đuổi Chúa Nguyễn ở phương Nam lập nên đế nghiệp.
Sáu câu:
"Bao giờ trúc mọc qua sông,
Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây,
Đoài cung một sớm đổi thay,
Chấn cung sao cũng sa ngay không còn,
Đầu cha lộn xuống chân con,
Mười bốn năm tròn hết số thì thôi."
Câu đầu ứng nghiệm việc Tôn Sỹ Nghị đem quân Thanh sang cướp nước ta. Khi đến thành Thăng Long, Sỹ Nghị cho quân sĩ bắc một chiếc cầu nổi bằng tre ngang sông Hồng.
Câu 2, sau khi dẹp được giặc Thanh một cách oai hùng ở trận Đống Đa, Nguyễn Huệ xưng là Quang Trung Hoàng Đế.
Câu 3, sau hai năm lên ngôi vua, Hoàng Đế Quang Trung mất. Đoài cung ở câu này có nghĩa là phương Tây. Theo Kinh Dịch cung Đoài là phận dưới, ý nói người em của nhà Tây Sơn là Nguyễn Huệ mất.
Câu 4, sau khi vua Quang Trung mất, Nguyễn Nhạc vì tức vua Cảnh Thịnh tức Nguyễn Quang Toản (con của Quang Trung) chiếm thành Quy Nhơn và tịch biên tài sản nên thổ huyết mà chết.("Chấn cung" ở câu 4 ám chỉ Nguyễn Nhạc. Theo Kinh Dịch cung Chấn là người trên, người anh của nhà Tây Sơn.)
Câu 5, ám chỉ tên của vua Quang Trung và vua Cảnh Thịnh (con của Quang Trung). Theo phép chiết tự, chữ "Quang" của vua Quang Trung có chữ "tiểu" ở trên. Chữ "Cảnh" của vua Cảnh Thịnh lại có chữ "tiểu" ở phía dưới. Cho nên mới gọi là "đầu cha lộn xuống chân con".
Câu 6, ám chỉ nhà Tây Sơn chỉ làm vua được 14 năm là dứt.
Tiên tri về việc phong hầu cho dân làng Vĩnh Lại:
Hai câu:
"Bao giờ ngựa đá qua sông
Thì dân Vĩnh Lại quận công cả làng"
Nguyên làng Vĩnh Lại là quê nhà của Trạng Trình. Dân chúng ở Vĩnh Lại thấy thiên hạ đồn đãi ông là người tiên tri biết trước được mọi việc sẽ xảy ra, liền yêu cầu ông đoán cho biết tương lai của dân chúng ở Vĩnh Lại. Trạng Trình chỉ nói xa, nói gần mà không chịu nói rõ, viện cớ là "Thiên cơ bất khả lậu". Nhiều người không hài lòng cho rằng ông có thâm ý. Thấy vậy, ông liền cho người đắp một con ngựa đá đặt ở bên bờ sông làng Vĩnh Lại. Lâu ngày đất cát bồi thành, giống như con ngựa đá qua sông thật. Lại cho khắc vào mình ngựa đá hai câu sấm trên. Dân chúng ở làng Vĩnh Lại đọc được hai câu sấm truyền và thấy ngựa đá sang sông Vĩnh Lại rất vui mừng cho rằng hồng phúc đã đến cho dân làng, ngày ngày mong đợi sự ứng nghiệm.
Về sau, khi vua Lê Chiêu Thống lánh nạn Tây Sơn, trốn qua làng Vĩnh Lại, dân chúng đều một lòng ủng hộ vua chống lại Tây Sơn. Vua Lê sẵn ấn tín đem theo bên mình liền phong tước hầu cho người cầm đầu nhóm dân làng. Tin ấy truyền ra, dân chúng tranh nhau xin nhà vua phong tước hầu cho mình. Sợ dân chúng sinh lòng phản trắc có hại cho mình, nhà vua liền phong tước hầu cho tất cả dân làng. Vua Lê Chiêu Thống trú ngụ tại làng Vĩnh Lại một thời gian, nhận thấy không thể nhờ dân làng mà khôi phục nghiệp cả được, liền trốn sang Tàu với các thuộc hạ để cầu viện binh với nhà Thanh. Tướng Tây Sơn là Vũ Văn Nhậm nghe tin vua Lê trốn tại Vĩnh Lại đem quân đến bắt, nhưng chậm mất. Biết được dân làng Vĩnh Lại chống Tây Sơn nên được phong tước hầu, liền hạ lệnh cho binh sĩ giết hại dân làng rất nhiều. Dân làng Vĩnh Lại vì khát vọng công danh nên chịu thiệt mạng oan uổng.
Tiên tri về tương lai nhà Nguyễn:
Hai câu: "Phụ nguyên chính thống hẳn hoi.
Tin dê lại mắc phải mồi đàn dê"
Ý nói nhà Nguyễn mới là dòng dõi chính thống của nhà vua. Vua Gia Long nhờ sự trợ giúp của người Pháp để diệt nhà Tây Sơn thống nhất đất nước. Nhưng rồi nhà Nguyễn cũng mất chủ quyền về tay người Pháp. Chữ "dê" nghĩa Hán là "dương" ám chỉ người Tây phương.
Bốn câu:
"Để loài bạch quỹ Nam xâm
Làm cho trăm họ khổ trầm lưu ly
Ngai vàng gặp buổi khuynh nguy
Gia đình một ở ba đi dần dần"
Hai câu đầu ám chỉ việc thôn tính của người Pháp ở Việt Nam làm cho dân chúng muôn phần khốn khổ, gây bao cảnh chia lìa.
Hai câu kế, vì chống lại sự xâm lăng của Pháp, ba vị vua của nhà Nguyễn từ trước đến sau là: Hàm Nghi (bị đày sang Algieria), Thành Thái và Duy Tân (bị đày sang đảo Reunion) chỉ còn một mình Khải Định ở lại làm vua kế nghiệp nhà Nguyễn ứng nghiệm vào câu: "Gia đình một ở ba đi dần dần".
Tiên tri những cuộc khởi nghĩa kháng Pháp:
Hai câu:
"Kìa kìa gió thổi lá rung cây
Rung Bắc, rung Nam, Đông tới Tây
Sau ngày giặc Pháp thôn tính nước ta, các phong trào Cần Vương trong nước, các Đảng Văn Thân nổi lên khắp nơi.
Bốn câu:
"Tan tác KIẾN kiều AN đất nước,
Xác xơ CỔ thụ sạch AM mây.
LÂM giang nổi sóng mù THAO cát,
HƯNG địa tràn dâng HÓA nước đầy."
Ứng nghiệm vào cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng kháng Pháp tại KIẾN AN, CỔ AM, LÂM THAO và HƯNG HÓA.
Tiên tri Toàn quyền Đông Dương Pasquier tử nạn máy bay:
Hai câu:
"Giữa năm hai bảy mười ba
Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây"
"Tám gà" nghĩa Hán văn là "bát kê". Đúng vào năm âm lịch nhuần hai tháng Bảy mười ba tháng. Ngày 15 tháng 1 năm 1934 nhằm ngày mồng một Tháng Chạp năm Quý Dậu, một năm nhuận, Toàn quyền Đông Dương Pasquier (Bát kê) mãn nhiệm vụ trở về Pháp. Dọc đường, máy bay bị ngộ nạn Pasquier bị chết cháy giữa không trung. Đúng vào câu: "Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây"

Nguồn gốc tên gọi Việt Nam

Cho đến trước thế kỷ 19 (trước khi nhà Nguyễn được thành lập), trong số các tác gia thời trung đại của Việt Nam, Nguyễn Bỉnh Khiêm được xem là người có mối liên hệ mật thiết nhất với hai chữ Việt Nam thông qua các trước tác của ông hoặc có liên quan trực tiếp với ông. Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải (Trung tâm nghiên cứu Tiềm năng con người thuộc Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam) là một trong những nhà nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam khẳng định điều này. Dù chưa có những bằng chứng chắc chắn để khẳng định Nguyễn Bỉnh Khiêm có phải là người đầu tiên sử dụng danh xưng Việt Nam với tư cách là quốc hiệu của dân tộc hay không nhưng nhiều nhà nghiên cứu hiện nay cũng đồng quan điểm với ông Nguyễn Phúc Giác Hải khi cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm có thể là người đầu tiên sử dụng danh xưng Việt Nam một cách có ý thức nhất để gọi tên của đất nước.
Trong các tác phẩm liên quan đến Nguyễn Bỉnh Khiêm, có ít nhất bốn lần danh xưng Việt Nam đã được sử dụng một cách có chủ ý. Điều này cũng góp phần bác bỏ quan điểm cho rằng hai chữ Việt Nam chỉ được Nguyễn Bỉnh Khiêm sử dụng một cách ngẫu nhiên hay tùy hứng mà thôi. Trong kho lưu trữ của Viện Nghiên cứu Hán-Nôm hiện còn lưu giữ nhiều tài liệu cổ (chép tay) về Nguyễn Bỉnh Khiêm có sử dụng danh xưng Việt Nam như một quốc hiệu tiền định. Ngay trong phần đầu của tập Sấm ký có tựa đề Trình tiên sinh quốc ngữ, tên gọi Việt Nam đã được nhắc đến: “Việt Nam khởi tổ xây nền”. Danh xưng Việt Nam còn được sử dụng một lần nữa trong bài thơ chữ Hán của ông có tựa đề Việt Nam sơn hà hải động thưởng vịnh (Vịnh về non sông đất nước Việt Nam). Ngoài ra còn có hai bài thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm gửi hai người bạn thân đồng thời là hai Trạng nguyên của triều Mạc, cho thấy tên gọi Việt Nam được dùng như một sự chủ ý. Bài thứ nhất gửi Trạng nguyên, Thư Quốc công Nguyễn Thiến, hai câu cuối Nguyễn Bỉnh Khiêm viết: Tiền trình vĩ đại quân tu ký / Thùy thị phương danh trọng Việt Nam (Tiền đề rộng lớn ông nên ghi nhớ, Ai sẽ là kẻ có tiếng thơm được coi trọng ở Việt Nam?). Bài thứ hai gửi Trạng nguyên, Tô Khê hầu Giáp Hải, hai câu cuối Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng viết: Tuệ tinh cộng ngưỡng quang mang tại / Tiền hậu quang huy chiếu Việt Nam (Cùng ngửa trông ngôi sao sáng trên bầu trời, Trước sau soi ánh sáng rực rỡ vào nước Việt Nam). Các bài thơ trên còn được chép trong tập thơ chữ Hán của ông là Bạch Vân am thi tập.

Người đời đánh giá

Trạng nguyên, Lại bộ thượng thư Giáp Hải đời Mạc đã viết thơ ca ngợi tài lý học của Nguyễn Bỉnh Khiêm và tên tuổi của ông trong giới Nho gia đương thời cũng như công lao của ông đối với triều Mạc, trong đó có những câu sau: “Chu Liêm Khê hậu hữu Y Xuyên, Lý học vu kim hữu chính truyền”; “Danh quán nho khoa lôi chấn địa, Lực phù nhật cốc trụ kình thiên”; “Tứ triều huân nghiệp nhân trung kiệt, Cửu lão quang nghi thế thượng tiên” (dịch nghĩa: “Sau Liêm Khê lại có Y Xuyên, Lý học ngày nay bậc chính truyền”; “Long bảng đứng đầu tên sấm dậy, Chống trời cột vững sức cường kiên”; “Bốn triều nghiệp lớn tay anh kiệt, Chín lão dung nghi dáng khách tiên”).
Bài văn tế “Môn sinh tế Tuyết Giang phu tử văn” đọc trước linh cữu Nguyễn Bỉnh Khiêm mùa đông năm 1585 do Tiến sĩ Đinh Thì Trung (Đinh Thời Trung) thay mặt các đồng môn soạn ra để tế viếng người thầy của mình. Trong bài văn tế, học trò Đinh Thời Trung đã coi Tuyết Giang phu tử là bậc “muôn chương đọc khắp, học tài chẳng kém Âu, Tô” (Âu Dương TuTô Đông Pha đời Tống), “văn lực không nhường Lý, Đỗ” (Lý BạchĐỗ Phủ đời Đường), “một kinh Thái ất thuộc lòng, đốt lửa soi gan Dương Tử” (hiểu rõ lẽ huyền vi của bộ Thái ất như Dương Hùng đời Hán), “suy trước biết sau, học lối Nghiêu Phu môn hộ” (suy trước biết sau chẳng khác nào Thiệu Ung đời Tống) và “một mình Lý học tinh thông, hai nước anh hùng không đối thủ”.
Tiến sĩ đời Lê Trung Hưng, Ôn Đình hầu Vũ Khâm Lân trong bài Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký soạn năm 1743 có những dòng ca ngợi:...Bởi tiên sinh chẳng những chỉ tinh thâm một môn Lý học, biết rõ dĩ vãng cũng như tương lai, mà sự thực thì trăm đời sau cũng chưa dễ ai hơn được vậy. Ôi! Ở trong thiên hạ, các bậc quân vương, các vị hiền giả, hỏi có thiếu chi, nhưng chỉ có lúc sống thì được phú quí vinh hoa, còn sau khi mất thì những cái đó lại cũng mai một đi với thời gian, hỏi còn ai nhắc nữa? Còn như tiên sinh, nói về thế hệ đã truyền đến 7, 8 đời, gần thì sĩ phu dân thứ ngưỡng vọng như bóng sao Đẩu trên trời, dẫu cách ngàn năm cũng còn tưởng như một buổi sớm, xa thì sứ giả Thanh triều tên Chu Xán, nói đến nhân vật Lĩnh Nam cũng đã có câu An Nam Lý học hữu Trình Tuyền tức là công nhận môn Lý học của nước An Nam chỉ có Trình Tuyền là người số một, rồi chép vào sách truyền lại bên Tàu. Như thế, đủ thấy Tiên sinh quả là một người rất mực của nước ta về thời trước vậy.
La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp sống thời nhà Tây Sơn, người được Quang Trung Nguyễn Huệ tôn kính như bậc thầy, từ xứ Nghệ ra Bắc, về trấn Hải Dương mong tìm lại những dấu tích gắn với cuộc đời của Tuyết Giang phu tử (Bạch Vân cư sĩ), đã ngậm ngùi viết trong bài thơ Quá Trình Tuyền mục tự (Qua chùa cũ của Trình Tuyền) khi viếng cảnh xưa mà không còn am Bạch Vân, quán Trung Tân bên bến Tuyết Giang, trong đó có những dòng thơ ca ngợi Trình Tuyền hầu Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có tài huyền cơ tham tạo hóa (mưu cơ thâm kín can dự cả vào công việc của tạo hóa) hay phiến ngữ toàn tam tính (một lời ngắn gọn mà bảo toàn cho cả ba họ).
Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tùy bút đã viết: “Lý học như Nguyễn Bỉnh Khiêm và Phùng Khắc Khoan đều là tinh anh của non sông đúc lại”.
Phan Huy Chú, danh sĩ thời nhà Nguyễn, trong bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí đã xem Nguyễn Bỉnh Khiêm là “một bậc kỳ tài, hiền danh muôn thuở”.
Nguyên Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười về thăm khu di tích Trạng Trình đã ghi những hàng chữ lưu niệm: “Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ, nhà văn, một thầy giáo, một nhà triết học, một nhà dự báo, một danh nhân văn hóa như cây đại thụ bóng trùm cả một thế kỷ XVI. Tấm lòng yêu nước, thương dân tha thiết, nhân cách cao cả cùng với tri thức uyên bác và tài năng sáng tạo đã tạo nên sự nghiệp, uy tín và ảnh hưởng rộng lớn của ông mà đến nay chúng ta rất đỗi tự hào, trân trọng.”
Giáo sư, Anh hùng lao động Vũ Khiêu có những đánh giá về việc Nguyễn Bỉnh Khiêm đã quyết định đi theo phò tá triều Mạc mà không phải là nhà Lê: “Vì sao nhà trí thức kiệt xuất này, suốt cuộc đời cho đến lúc gần 50 tuổi vẫn nhất định không chịu đi thi, không chịu cộng tác với nhà Lê, không nhận bất cứ công việc gì của nhà Lê để cuối cùng chọn Mạc Đăng Dung như minh chủ của mình?... Tấm lòng của Nguyễn Bỉnh Khiêm và thái độ của ông do chính ông tự tay viết ra và còn để lại đã bác bỏ mọi sự xuyên tạc vô căn cứ về ông. Những lời tâm huyết trong thơ của ông khiến người đời sau phải suy nghĩ vì sao ông lại gắn bó với Mạc Đăng Dung và triều Mạc đến thế.”
GS.TSKH. Vũ Minh Giang (Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội ) cho rằng: “Sự dấn thân muộn màng của một con người tài năng bộc lộ từ khi còn bé chứng tỏ Nguyễn Bỉnh Khiêm không thuộc người lãnh đạm với thời cuộc, mà trái lại ông là người có lý tưởng cao hơn nhiều so với chí hướng thi đỗ làm quan, vinh thân phì gia thường thấy ở phần lớn nho sỹ. Ông chỉ tham dự vào chính trường khi cảm thấy thời cuộc cần đến mình, khi hoàn cảnh chính trị có thể tạo điều kiện cho ông đem tài trí ra giúp đời, phụng sự đất nước”.
Giáo sư Nguyễn Huệ Chi trong bài tham luận “Bước đầu suy nghĩ về văn học Mạc” đã đánh giá về Nguyễn Bỉnh Khiêm: “...Ông là một nhà văn hóa, và riêng ở bình diện văn hóa mà nói thì tầm vóc không thua kém Nguyễn Trãi là mấy, phần nào đấy còn khai phá vào một vài lĩnh vực sâu hơn. Bởi ông chuyên về dịch học. Chính ông xây dựng nền tảng của tư tưởng biện chứng trong Kinh Dịch, góp vào lịch sử tư tưởng Việt Nam một số kiến giải mới mẻ. Là một nhà dịch học nên ông nổi tiếng là bậc tiên tri, nhưng ông cũng lại là một nhà thơ lớn. Ông viết đến một nghìn bài thơ chữ Hán. Đây là con số mà từ thời đại Mạc trở về trước hoàn toàn chưa có...”
Phó Giáo sư Nguyễn Tài Thư trong tác phẩm Nghiên cứu Kinh Dịch (Nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin, 2002) đã có những đúc kết về di sản Lý học (Dịch học) của Trạng Trình: “Chiêm nghiệm những nguyên lý của Chu Dịch, đưa nó vào xử thế mà ông nổi tiếng là người nhìn xa trông rộng. Những sự kiện Nguyễn Bỉnh Khiêm tiên đoán nhà Lê trung hưng, chỉ cho nhà Mạc lên Cao Bằng, khuyên Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Hóa Châu đã được lịch sử chứng minh là tài tình, thì ở đây không có gì là lời nói gặp may, mà là những dự đoán có cơ sở thực tế vững vàng, đáng được nhân dân tôn ông làm nhà tiên tri. Quả thật, học Dịch và hiểu Dịch như ông xưa nay không phải là nhiều... Ông đã vượt được các nhà Nho khác chính là ở chỗ ông học Dịch nhưng không bị lệ thuộc hoàn toàn vào Dịch”.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là danh nhân văn hóa duy nhất trong lịch sử Việt Nam cho tới nay được công nhận là một vị thánh của một tôn giáo chính thức. Ông được suy tôn là Thanh Sơn Đạo sĩ (còn được gọi là Thanh Sơn Chơn nhơn), là một trong ba vị thánh linh thiêng của Đạo Cao Đài. Bức tranh Tam Thánh ký hòa ước được lưu thờ tại Tòa Thánh Tây Ninh có vẽ chân dung của Nguyễn Bỉnh Khiêm bên cạnh Victor HugoTôn Trung Sơn.
sau đây là một bản đáng tin cậy nhất về những lời sấm truyền của Trạng:
1.Vận lành mừng gặp tiết lành 
 Thấy trong quốc ngữ lập thành nên câu 
 2. Một câu là một nhiệm màu 
 Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao
 3.Trải vì sao mây che Thái Ất 
 Thủa cung tay xe nhật phù lên 
 4. Việt Nam khởi tổ xây nên
 Lạc Long ra trị đương quyền một phương 
 5. Thịnh suy bỉ thới lẽ thường 
 Một thời lại một nhiễu nhương nên lề 
 6. Ðến Ðinh Hoàng nối ngôi cửu ngũ
Mở bản đồ rủ áo chấp tay 
 7. Ngự đao phút chốc đổi thay 
 Thập bát tử rày quyền đã nổi lên 
 8. Ðông a âm vị nhi thuyền 
 Nam phương kỳ mộc bỗng liền lại sinh
 9. Chấn cung hiện nhật quang minh 
 Sóng lay khôn chống trường thành bền cho 
 10. Ðoài cung vẻ rạng trăng thu 
 Ra tay mở lấy đế đô vạn toàn 
 11. Sang cửu thiên ám vầng hồng nhật 
 Dưới lẫn trên ăn vẩn uống quen 
 12. Sửa sang muôn việc cầm quyền
 Ngồi không ai dể khẳng gìn giúp cho 
 13. Kìa liệt vương khí hư đồ ủng
 Mặc Cường Hầu ong ỏng khắp nơi
14.Trời sinh ra những kẻ gian
 Mặt khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài 
 15.Áo vàng ấm áp đà hay 
 Khi sui đấp núi khi say xây thành 
 16.Lấy đạt điền làm công thiên hạ 
 Ðược mấy năm đất lở giếng mòn 
 17.Con yết ạch ạch tranh khôn 
 Vô già mở hội mộng tôn làm chùa 
 18. Cơ trời xem đã mê đồ 
 Ðã đô lại muốn mở đô cho người 
 19. Ấy lòng trời xuôi lòng bất nhẫn 
 Suốt vạn dân cừu giận oán than 
 20. Dưới trên dốc chí lo toan
 Những đua bán nước bán quan làm giàu 
21. Thống rủ nhau làm mồi phú quí 
 Mấy trung thần có chí an dân
22. Ðua nhau làm sự bất nhân 
 Ðã tuần rốn bể lại tuần đầu non 
 23.Dư đồ chia xẻ càn khôn 
 Mối giềng man mác khiếp mòn lòng nhau
24.Vội sang giàu giết người lấy của
 Sự có chăng mặc nọ ai đôi
 25. Việc làm thất chính tơi bời 
 Minh ra bổng lại thấy thôi bấy giờ 
 26.Xem tượng trời đã giơ ra trước
 Còn hung hăng bạc ngược quá xưa 
 27.Cuồn phong cả sớm liền trưa 
 Ðã đờn cửu khúc còn thơ thi đề 
 28. Ấy Tần Vương ngu mê chẳng biết 
 Ðể vạn dân dê lại giết dê 
 29. Luôn năm chật vật đi về 
 Âm binh ở giữa nào hề biết đâu 
 30.Thấy nội thành tiếng kêu ong ỏng 
Cũng một lòng trời chống khác nào 
 31.Xem người dường vững chiêm bao
 Nào đâu còn muốn ước ao thái bình 
32. Một góc thành làm mấy chứng quỷ 
 Ðua một lòng ích kỷ hại nhân 
 33.Bốn phương rời rỡ hồng trần 
Làng khua mỏ cá làng phân điếm tuần 
 34.Tiếc là những xuất dân làm bạo
 Khua dục loài thỏ cáo tranh nhau 
 35.Nhân danh trọn hết đâu đâu 
 Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê 
36.Hùm già lạc dấu khôn về 
 Mèo non chi chí tìm về cố hương 
37.Chân dê móng khởi tiêu tường 
 Nghi nhau ai dễ sửa sang một mình 
 38.Nội thành ong ỏng hư kinh 
 Ðầu khỉ tin sứ chèo thành lại sang
39.Bở mồ hôi Bắc giang tái mã 
 Giửa hai xuân bỗng phá tổ long 
 40.Quốc trung kinh dụng cáo không 
 Giữa năm giả lai kiểm hung mùa màng
 41.Gà đâu sớm gáy bên tường 
Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không 
 42.Thủy binh cờ phất vầng hồng
 Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng 
 43.Ðứng hiên ngang đố ai biết trước
 Ấy Bắc binh sang việc gì chăng ? 
44.Ai còn khoe trí khoe năng 
 Cấm kia bắt nọ tưng bừng đôi nơi 
 45.Chưa từng thấy đời này sự lạ 
 Bổng khiến người giá họa cho dân 
 46.Muốn bình sao chẳng lấy nhân 
Muốn yên sao chẳng dục dân ruộng cày 
 47.Ðã nên si Hoàn Linh đời Hán 
 Ðúc tiền ra bán tước cho dân
 48.Xun xoe những rắp cậy quân 
 Chẳng ngờ thiên đạo xây dần đã công 
 49.Máy hoá công nắm tay dễ ngỏ 
 Lòng báo thù ai dễ đã nguôi 
 50.Thung thăng tưởng thấy đạo trời 
 Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra
 51.Cát lầm bốn bể can qua 
 Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về 
 52.Quân hùng binh nhuệ đầy khe 
 Kẻ xưng cứu nước kẻ khoe trị đời 
 53.Bấy giờ càng khốn than ôi 
 Quỉ ma trật vật biết trời là đâu ? 
 54.Thương những kẻ ăn rau ăn giới 
 Gặp nước bung con cái ẩn đâu 
 55.Báo thù ấy chẳng sai đâu 
 Tìm non có rẩy chừng sau mới toàn 
 56.Xin những kẻ hai lòng sự chúa 
 Thấy đâu hơn thì phụ thửa ân 
 57.Cho nên phải báo trầm luân 
 Ai khôn mới được bảo thân đời này 
 58. Nói cho hay khảm cung rồng dấy 
 Chí anh hùng xem lấy mới ngoan 
 59.Chử Rằng lục thất nguyệt gian 
 Ai mà nghĩ được mới gan anh tài 
 60.Hễ nhân kiến đã dời đất cũ 
 Thì phụ nguyên mới trổ binh ra 
 61.Bốn phương chẳng động can qua
 Quần hùng các xứ điều hoà làm tôi 
 62.Bấy giờ mở rộng qui khôi 
 Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn 
64.Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh 
Hoàng phúc xưa đã định tây phong
 65.Làu làu thế giới sáng trong 
 Lồ lộ mặt rồng đầu có chử vương 
 66.Rỏ sinh tài lạ khác thường 
 Thuấn Nghiêu là chí Cao Quang là tài 
 67.Xem ý trời có lòng đãi thánh 
 Dốc sinh hiền điều đỉnh nội mai 
 68.Chọn đầu thai những vì sao cả 
 Dùng ở tay phụ tá vương gia 
 69.Bắc phương chính khí sinh ra 
 Có ông Bạch sĩ điều hoà hôm mai 
 70.Song thiên nhật rạng sáng soi
 Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường 
 71.Ðời này thánh kế vị vương 
 Ðủ no đạo đức văn chương trong mình 
 72.Uy nghi trạng mạo khác hình 
Thác cư một gốc kim tinh phương đoài 
73.Cùng nhau khuya sớm dưỡng nuôi
 Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân 
 74.Binh thơ mấy quyển kinh luân 
 Thiên văn địa lý nhân luân càng mầu 
 75.Ở đâu đó anh hùng hẳn biết 
 Xem sắc mây đã biết thành long 
 76.Thánh nhân cư có thụy cung 
 Quân thần đã định gìn lòng chớ tham 
 77.Lại dặn đấng tú nam chí cả 
 Chớ vội vàng tất tả chạy rong 
 78.Học cho biết lý kiết hung 
 Biết phương hướng bội chớ dùng làm chi 
 79.Hễ trời sinh xuống phải thì 
 Bất kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông
 80.Kìa những kẻ vội lòng phú quí 
 Xem trong mình một thí đều không 
 81.Ví dù có gặp ngư ông 
 Lưới chài đâu sẵn nên công mà hòng 
82.Xin khuyên đấng thời trung quân tử 
 Lòng trung nghi ai nhớ cho tinh 
 83.Âm dương cơ ngẩu ngô sinh 
 Thái nhâm thái ất trong mình cho hay 
 84.Văn thì luyện nguyên bài quyết thắng 
 Khen Tử Phòng cũng đấng Khổng Minh
 85.Võ thông yên thủy thần kinh 
 Ðược vào trận chiến mới càng biến cơ 
 86.Chớ vật vờ quen loài ong kiến
 Biết ray tay miệng biếng nói không 
 87.Ngỏ hay gặp hội mây rồng 
 Công danh sáng chói chép trong vân đài 
 88.Bấy giờ phỉ sức chí trai 
 Lọ là cho phải ngược xuôi nhọc mình 
 89.Nặng lòng thật có vĩ kinh 
 Cao tay mới gẩm biết tình năm nao 
 90.Trên trời có mấy vì sao 
 Ðủ nho biền tướng anh hào đôi nơi 
 91.Nước Nam thường có thánh tài 
 Ai khôn xem lấy hôm mai mới tường 
 92.So mấy lời để tàng kim quĩ 
 Chờ hậu mai có chí sẽ cho 
 93.Trước là biết nẽo tôn phò 
 Sau là cao chí biết lo mặc lòng 
 94.Xem đoài cung đến thời bất tạo
 Thấy vĩ tinh liệu rạo cho mau
 95.Nguôi lòng tham tước, tham giàu 
Tìm nơi tam hiểm mới hầu bảo thân 
 96.Trẻ con mang mệnh Tướng quân 
 Ngỡ oai đã dấy ngỡ nhân đã nhường 
 97.Ai lấy gương vua U thủa trước 
 Loạn ru vì tham ngược bất nhân 
98.Ðoài phương ong khởi lần lần 
Muôn sinh Ba Cốc cầm binh dấy loàn 
99.Man mác một đỉnh Hoành Sơn 
 Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù 
100.Ấy là những binh thù Thái Thái 
 Lòng trời xui ai nấy biết ru ? 
 101.Phá điền dầu khỉ cuối thu 
 Tái binh mới động thập thò liền sang 
102.Lọ chẳng thường trong năm khôn xiết
 Vẽ lại thêm hung kiệt mất mùa 
 103.Lưu tinh hiện trước đôi thu 
 Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm
 104.Xem thấy nhũng sương săm tuyết lạnh 
 Loài bất bình tranh mạnh hung hăng 
 105.Thành câu cá, lửa tưng bừng 
Kẻ ngàn Ðông Hải người rừng Bắc Lâm 
106.Chiến trường chốn chốn cát lầm 
Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông 
 107.Sang thu chín huyết hồng tứ giả 
 Noi đàng dê tranh phá đôi nơi 
 108.Ðua nhau đồ thán quần lê 
 Bấy giờ thiên hạ không bề tựa nương
 109.Kẻ thì phải thủa hung hoang 
Kẻ thì binh hỏa chiến trường chết oan 
 110.Kẻ thì mắc thủa hung tàn 
Kẻ thì bận của bổng toan khốn mình
 111.Muông vương dựng ổ cắn tranh 
Ðiều thì làm chước xuất binh thủ thành 
 112.Bời bời đua mạnh tranh giành 
Ra đâu đánh đấy dem binh sớm ngày 
 113.Bể thanh cá phải ẩn cây
 Ðất bằng nổi sấm cát bay mịt mù 
114.Nào ai đã dễ nhìn U 
 Thủy chiến bộ chiến mặc dù đòi cơn 
115.Cây bay, lửa cháy ngút ngàn 
 Một làng còn mấy chim đàn bay ra 
 116.Bốn phương cùng có can qua 
Làm sao cho biết nơi hào bảo thân 
 117.Ðoài phương thực có chân nhân 
 Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người 
118.Tìm cho được chốn được nơi 
Thái nguyên một giãi lần chơi trú đình
 119.Bốn bề núi đá riểu quanh 
Một đường tiểu mạch nương mình dấy an
 120.Hễ Ðông Nam nhiều phen tàn tạc
 Tránh cho xa kẻo mắc đao binh 
 121.Bắc kinh mới thật đế kinh 
Dấu thân chưa dễ dấu danh được nào 
 122.Chim hồng vỗ cánh bay cao 
Tìm cho được chốn mới vào thần kinh 
 123.Ai dễ cứu con thơ sa giếng 
 Ðưa một lòng tranh tiếng dục nhau 
 124.Vạn dân chịu thủa u sầu 
 Kể dư đôi ngủ mới hầu khoan cho 
 125.Cấy cày thu đãi thời mùa 
 Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai 
 126.Nhân ra cận duyệt viễn lai 
Chẳng phiền binh nhọc chẳng nài lương thêm 
 127.Xem tượng trời biết đường đời trị 
 Gẫm về sau họ Lý xưa nên
 128.Giòng nhà để lấy dấu truyền
 Gẫm xem bốn báu còn in đời đời
 129.Thần qui cơ nổ ở trời
 Ðể làm thần khí thủa nơi trị trường 
130.Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh 
Sông Bảo Giang thiên định ai hay 
 131.Lục thất cho biết ngày dài 
 Phụ nguyên ấy thực ở đầy tào khê 
 132.Có thầy nhân thập đi về 
 Tả phụ hửu trì cây cỏ làm binh 
 133.Giốc hết sức sửa sang vương nghiệp
 Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời 
 134.Ra tay điều chỉnh hộ may 
 Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân 
 135.Lọ là phải nhọc kéo quân 
 Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về 
 136.Năm giáp tý vẽ khuê đã rạng
 Lộ Ngũ tinh trinh tượng thái hanh 
 137.Ân trên vũ khí vân hành 
 Kẻ thơ ký tuý kẻ canh xuân đài 
 138.Bản đồ chảng sót cho ai 
 Nghìn năm lại lấy hội nơi vẹn toàn
 139.Vững nền vương cha truyền con nối 
Dõi muôn đời một mối xa thư 
 140.Bể kình tâm lặng bằng tờ 
 Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân 
 141.Âu vàng khỏe đặt vững chân 
 Càng bền thế nước vạn xuân lâu dài 
 142.Vừa năm nhâm tý xuân đầu 
Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời 
 143.Quyển vàng mở thấy sấm trời 
 Từ Ðinh đổi đời chí lục thất gian
 144.Một thời có một tôi ngoan 
Giúp trong việc nước gặp an thái bình 
 145.Luận chung một tập kim thời
 Tướng quyền tử sĩ nam nhi học đòi 
 146.Trượng phu có chí thời coi 
Những câu nhiệm nhặt đáng đôi nhành vàng 
 147.Tài nầy nên đấng vẻ vang 
 Biết chừng đời trị biết đường đời suy 
 148.Kể từ nhân đoản mà đi 
 Số chưa gặp thì biết hoà chép ra 
 149.Tiếc thay hiền sĩ bao già 
 Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công 
 150.Thử cho tay giúp ra dùng 
 Tài này so cùng tài trước xem sao 
 151.Trên trời kể chín tầng cao 
 Tay nghe bằng một ti hào biết hay
 152.Hiềm vì sinh phải thời này
 Rấp thù mở nước tiếc thay chưng đời 
 153.Hợp đà thay thánh nghìn tài 
 Giáng sinh rủi kiếp quỉ ma nhà trời 
 154.Nói ra thì lậu sự đời
 Trái tai phải lụy tài trai khôn luần 
 155.Nói ra ám chúa bội quân 
 Ðương thời đời trị xoay vần được đâu 
 156.Chờ cho nhân đoản hết sau 
 Ðến chừng đời ấy thấy âu nhiễu nàn 
 157.Trời xui những kẻ ắt gian
 Kiếp độc đạo thiết làm loàn có hay 
 158.Vua nào tôi ấy đã bày 
 Trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn 
 159.Ðua nhau bội bạn nghịch vi 
 Ích gia phi kỷ dân thì khốn thay 
 160.Tiếc tài gẩm được thời hay 
 Ðã sao như vậy ra tay sẽ dùng 
 161.Tài trai có chí anh hùng
 Muốn làm tướng súy lập công xưng đời 
 162.Khá xem nhiệm nhặt tội trời
 Cơ mưu nhiệm nhặt mấy trai anh hùng 
 163.Ði tìm cho đến đế cung
 Rấp phù xuất lực đế cung được toàn 
 164.Bảo nhau cương kỷ cho tường
 Bốn phương cũng được cho yên trong ngoài 
 165.Chờ cho động đất chuyển trời 
 Bấy giờ thánh sẽ nên tay anh hùng 
 166.Còn bên thì náu chưa xong
 Nhân lực cướp lấy thiên công những là 
 167.Ðời ấy những quỉ cùng ma 
 Chảng còn ở thật người ta đâu là 
 168.Trời cao đất rộng bao xa 
 Làm sao cho biết cửa nhà đế vương 
 169.Dù trai ai chửa biết tường 
 Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này 
 170.Ý ra lục thất gian nay 
 Thời vận đã định thời nầy hưng vương 
 171.Trí xem nhiệm nhặt cho tường 
 Bảo Giang thánh xuất trung ương thuở nầy 
 172.Vua ngự thạch bàn xa thay 
 Ðại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng 
173.Gà kêu vượn hót vang lừng 
 Ðường đi thỏ thẻ dặm chưn khôn dò 
 174.Nhân dân vắng mạt bằng tờ 
 Sơn lâm vào ở đổ nhờ khôn thay 
 175.Vua còn cuốc nguyệt cày mây 
Phong điều vũ thuận thú rày an dân 
 176.Phong đăng hoà cốc chứa chang 
Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây 
 177.Chính cung phương khảm vần mây 
Thực thay thiên tử là nay trị đời
 178.Anh hùng trí lượng thời coi 
 Công danh chẳng ngại tìm đòi ra đi 
 179.Tìm lên đến thạch bàn khê 
 Có đất sinh thánh bên kia cuối làng
 180.Nhìn đi nhìn lại cho tường 
Dường như chửa có sinh vương đâu là 
 181.Chảng tìm thì đến bình gia 
Thánh chưa sinh thánh báo ca địa bình 
 182.Nhìn xem phong cảnh cũng xinh
 Tả long triều lại có thành đợt vây 
 183.Hửu hổ uấn khúc giang này 
Minh Ðường thất diệu trước bày mặt tai 
 184.Ở xa thấy một con voi 
 Cúi đầu quen bụi trông vời hồ sâu
 185.Ấy điềm thiên tử về chầu 
 Tượng trưng đế thánh tô lâu trị đời 
 186.Song thiên nhật nguyệt sáng soi 
Sinh đặng chúa ấy là ngôi chẳng cầu
 187.Ðến đời thịnh vượng còn lâu 
Ðành đến tam hợp chia nhau sẽ làm 
188.Khuyên cho Ðông Bắc Tây Nam
 Muốn làm tướng súy thì xem trông này
189.Thiên sinh thiên tử ư hỏa thôn 
 Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn
 190.Tiền sinh cha mẹ đà cách trở 
 Hậu sinh thiên tử Bảo Giang môn 
 191.Kìa cơn gió thổi lá rung cây 
Rung Bắc sang Nam Ðông tới Tây 
 192.Tan tác Kiến kiều An đất nước 
 Xác xơ Cổ thụ sạch Am mây
 193.Sơn Lâm nổi sóng mù Thao cát 
Hưng địa tràng giang Hóa nước đầy 1
94.Một ngựa một Yên ai sùng Bái 
 Cha con nhà Vĩnh Bảo cho hay 
195.Trẻ mừng búng tít con quay 
 Vù vù chong chóng gió bay trên đài 
 196.Nhà cha cửa đóng then cài 
 Ầm ầm sấm động hỏi người đông lân 
 197.Tiếc tám lạng thương nửa cân 
 Biết rằng ai có du phần như ai 
 198.Bắt tay nằm nghỉ dông dài
 Thương người có một lo hai phận mình
 199.Canh niên tân phá
 Tuất Hợi phục sinh 
 Nhị Ngũ dư bình 
200.Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh 
 Can qua tứ xứ loạn đao binh 
 201.Mã đề dương cước anh hùng tận 
 Thân dậu niên lai kiến thái bình 
202.Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu 
 Có một đàn xà đánh lộn nhau 
 203.Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng 
 Lợn kia làm quái phải sai đầu 
 204.Chuột nọ lăm le mong cản tổ 
 Ngựa kia đủng đỉnh bước về tàu 
 205.Hùm ở trên rừng gầm mới dậy 
 Tìm về quê củ bắt ngựa tàu 
 206.Cửu cửu kiền khôn dĩ định 
 Thanh minh thời tiết hoa tàn 
 207.Trực đáo dương đầu mã vĩ 
 Hồ binh bát vạn nhập trường an 
208.Bảo Giang thiên tử xuất
 Bất chiến tự nhiên thành 
 209.Lê dân bảo bảo noản 
 Tứ hải lạc âu ca 
 210.Dục đức thánh nhân hương 
 Qua kiều cư Bắc phương 
 211.Danh vi Nguyễn gia tử 
 Kim tịch sinh ngưu lang 
 212.Thượng đại nhân bất nhân
 Thánh ất dĩ vong ân 
 Bạch hổ kim đai ấn 
 Thất thập cổ lai xuân 
 213.Bắc hữu kim thành tráng 
 Nam tạc ngọc bích thành 
 Hỏa thôn đa khuyển phệ 
 Mục giả dục nhân canh 
 214.Phú quí hồng trần mộng 
 Bần cùng bạch phát sinh 
 215.Anh hùng vương kiếm kích 
 Manh cổ đổ Thái Bình 
 216.Nam Việt hửu Ngưu tinh
 Quá thất thân thủy sinh 
 217.Ðiạ giới sĩ vị bạch 
 Thủy trầm nhi bắc kinh 
 218.Kỷ mã xu dương tẩu 
 Phù kê thăng đại minh 
 219.Trư thử giai phong khởi 
 Thìn mão xuất thái bình 
220.Phân phân tùng Bắc khởi 
 Nhiểu nhiểu xuất Ðông chinh 
221.Bảo sơn thiên tử xuất 
 Bất chiến tự nhiên thành 
 222.Thủy trung tàng bảo cái 
 Hứa cập thánh nhân hương 
 223.Mộc hạ châm châm khẩu
 Danh thế xuất nan lương 
 224.Danh vi Nguyễn gia tử 
 Tinh bản tại ngưu lang 
 225.Mại dử lê viện dưỡng 
 Khởi nguyệt bộ đại giang 
 226.Hoặc kiều tam lộng ngạn 
 Hoặc ngụ kim lăng cương 
 227.Thiên dử thần thực thụy 
 Thụy trình ngũ sắc quang 
 228.Kim kê khai lựu điệp 
 Hoàng cái xuất quí phương 
 229.Nhân nghĩa thùy vi địch 
 Ðạo đức thực dữ đương
 230.Tộ truyền nhị thập ngủ 
 Vận khải ngủ viên trường 
 231.Vận đáo dương hầu ách 
 Chấn đoài cương bất trường 
 232.Quần gian đạo danh tự 
 Bách tính khổ tai ương 
 233.Can qua tranh đấu khởi 
 Phạm địch tánh hung hoang 
 234.Ma vương sát đại quỉ 
 Hoàng thiên tru ma vương 
 235.Kiền khôn phú tai vô lương
 Ðào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng 
236.Cơ nhị ngủ thư hùng vị quyết 
 Ðảo Hoàn Sơn tam liệt ngũ phân 
 237.Ta hồ vô phụ vô quân
 Ðào viên tán lạc ngô dân thủ thành 
238.Ðoài phương phước điạ giáng linh 
 Cửu trùng thụy ứng long thành ngũ vân 
 239.Phá điền thiên tử giáng trần
 Dũng sĩ nhược hải mưu thần như lâm 
 240.Trần công nai thị phúc tâm 
 Giang hồ tử sĩ Đào Tiềm xuất du 
 241.Tướng thần hệ xuất y chu 
 Thứ kỵ phục kiến Ðường ngu thi hành
 242.Hiệu xưng thiên hạ Thái Bình 
 Ðông Tây vô sự Nam thành quốc gia .
--- Nguyễn Bỉnh Khiêm ---


2. NHÀ TIÊN TRI NOSTRADAMUS CỦA NƯỚC PHÁP:NOSTRADAMUSMichel de NostrAdamus là một trong những nhà tiên tri nổi tiếng nhất trong lịch sử nhân loại. Những lời tiên đoán của ông được thể hiện dưới dạng những bài thơ tứ tuyệt có vần. Phần lớn lời tiên tri của Nostradamus ứng vào các thảm họa nạn dịch hạch, động đất, chiến tranh, lụt lội, ám sát, hạn hán...Bước vào những kỷ nguyên Internet, những lời sấm của Nostradamus bất ngờ được tuyên truyền rộng rãi khiến ông ngày càng nổi danh. 
 Ví dụ như khi xảy ra sự kiện tấn công khủng bố vào tòa tháp đôi WTC ngày 11-9-2001 tại New York, Mỹ, trên Internet nhan nhản bài thơ được cho là của Nostradamus : 
“Tại thành phố York sẽ có sự sụp đổ lớn 
Hai anh em sinh đôi bị xé nát do hỗn loạn 
Khi thành trì đổ vỡ người lãnh đạo tối cao sẽ thất bại 
Cuộc chiến lớn thứ ba sẽ bắt đầu khi thành phố bùng cháy”. Những lời tiên tri của Nostradamus thường rất khó hiểu, hoặc có thể diễn giải theo nhiều nghĩa. Ngoài việc ông thường kết hợp nhiều ngôn ngữ, chơi ngữ và nói bóng gió, còn có một lý do khác nữa : ông nhìn thấu suốt sự phát triển của nhân loại đến năm 7.000. Ông khó có thể nói về các sự kiện khoa học kỹ thuật của thế kỷ 20 và 21 khi dùng tiếng Pháp của thế kỷ 16 vì... bí từ. 
Một số lời tiên tri được diễn giải chính xác và dễ hiểu :Cái chết của vua Henry II : 
Sư tử con sẽ vượt qua sư tử già 
Trong cuộc chiến chỉ có một trận đánh
Nó sẽ đâm thủng mắt từ trong lồng vàng 
Hai vết thương và một cái chết thảm thương (Quyển Thế kỷ 1, câu 35) 
Tháng 6-1559, Henrry II phớt lờ những cảnh báo Nostradamus đưa cho ông, quyết định tham gia cuộc đấu thương với Bá tước Montgomery. Hai đối thủ cùng đeo chiếc khiên khắc nổi hình sư tử và Montgomery trẻ hơn Henry 6 tuổi. Theo đúng quy định, cuộc đấu đó chỉ diễn ra một trận duy nhất. Montgomery lỡ đà, chậm hạ chiếc thương xuống, khiến nó đâm vào miếng che mắt mạ vàng của nhà vua. Ngoài vết thương nhỏ ở mặt và cổ, Henry bị hai vết thương rất nặng : ông bị mù một mắt và bị chiếc khiên xiên vào thái dương. Henrry II từ trần sau 10 ngày nằm trên giường bệnh. 
Hỏa hoạn ở London năm 1666 : Nostradamus viết :
 Máu của thần công lý sẽ bao phủ London 
Thành phố sẽ cháy vào năm 66 
Vị phu nhân mất địa vị tối cao 
Và nhiều nơi bị hủy hoại (Quyển Thế kỷ 2, câu 51) Một vụ hỏa hoạn lớn đã xảy ra tại thủ đô London của Anh năm 1966. Đây là một trong những lời tiên tri hiếm hoi của Nostradamus có ghi rõ năm. Ngay cả những người hoài nghi nhất cũng phải thừa nhận tính chính xác của lời tiên đoán này. Vụ hỏa hoạn đã thiêu rụi 3/4 London. 
Dự báo về thất bại của Napoleon ở nước Nga
Một đội quân lớn sẽ tràn vào nước Nga 
Những người bị xâm lược sẽ phá hủy một thành phố 
Quân chủ lực sẽ phản công
Những kẻ chiến bại sẽ chết trên miền đất trắng.
Những câu thơ này được hiện thực hóa trong trận chiến lịch sử : quân dân Nga thực hiện chính sách “tiêu thổ kháng chiến”, sau đó đạo quân của tướng Kutuzov phản công. Quân đội của Napoleon bị truy sát trên đường rút chạy và chết gần hết trên tuyết trắng của nước Nga.
Nostradamus còn đưa ra dự báo về số phận của Napoleon
Hoàng đế vĩ đại sẽ khởi đầu với một vị trí thấp kém 
Và nhanh chóng trở nên lớn mạnh 
Nơi nhỏ hẹp sẽ trở thành trung tâm 
Khi ông giành được quyền lực tối cao. 
Ông hoàng chiến bại bị lưu đày ở Elba 
Sẽ trở về Marseille qua vịnh Genoa
Nhưng không vượt qua được các thế lực ngoại bang 
Tuy thoát chết nhưng vẫn phải đổ máu.
Napoleon bị lưu đày tại đảo Elba nhưng trốn ra sau 100 ngày giam cầm. Sau khi thất bại trong trận Waterloo, ông bị tước mọi quyền lợi và lưu vong tại đảo St. Helena cho tới khi qua dời.


3.VANGA CỦA BUNGARI:

Hồi sinh ra từ cát bụi 
Vanga sinh ngày 31/1/1911, mất ngày 11/8/1996. Bà sống ẩn dật cả đời ở vùng hẻo lánh Kozhuth thuộc Petrich, Bungary. Vanga mất thị lực năm 12 tuổi sau khi bị cuốn đi bởi một cơn lốc lớn. Người ta tìm thấy cô gái nhỏ vẫn còn thoi thóp hơi thở nằm vùi lấp giữa bụi và đá, hai hốc mắt chứa đầy cát. Vanga làm bạn với bóng tối từ đó. Lời tiên tri đầu tiên của Vanga được ghi nhận là vào năm bà 16 tuổi. Bà giúp cha mình tìm lại bầy cừu bị mất trộm bằng cách mô tả chính xác về cái sân nơi bọn trộm cất giấu đàn gia súc. Tuy nhiên, khả năng tiên tri của Vanga chỉ thực sự đạt đến độ chín năm 30 tuổi. Nhiều người tìm đến bà để xin những lời tiên tri. Trong đó có cả “kẻ hủy diệt” Adolf Hitler. Hitler từng ghé thăm nhà Vanga và rời đi với gương mặt nặng trĩu. Không có nhiều người tin vào tiên đoán của những nhà tiên tri. Tuy nhiên, người ta không thể làm ngơ khi những tiên đoán đó thành hiện thực. Vanga trở nên nổi tiếng vì những tiên đoán “thần thánh” của bà về những thảm họa toàn cầu. Độ chính xác của những lời tiên tri này khiến loài người giật mình hoài nghi: Liệu có thực sự tồn tại một thế lực siêu nhiên? Biết bao giấy mực đã cất công nghiên cứu để giải đáp về “bí ẩn Vanga”. Ví dụ, Vanga từng tiên đoán về vụ tấn công khủng bố ngày 11/9 ở Mỹ, khi bà nói rằng “người Mỹ sẽ ngã xuống dưới sự tấn công của những con chim sắt”. Nhà tiên tri cũng dự đoán chính xác sự bùng nổ Đại chiến thế giới thứ 2, cải tổ kinh tế chính trị ở Liên bang Xô Viết cũ, cái chết của công nương Diana và thậm chí vụ chìm tàu ngầm nguyên tử Kursk. Năm 1980, nhà tiên tri mù nói rằng: “Vào thời điểm chuyển giao thế kỷ, tháng 8 năm 1999 hoặc năm 2000, Krusk sẽ ngập chìm trong nước, cả thế giới sẽ đau buồn về điều này”. Ở thời điểm đó, người ta không mấy bận tâm đến lời tiên liệu trên. Tuy nhiên, 20 năm sau, loài người đã phải sững sờ kinh ngạc. Một tàu ngầm nguyên tử của Nga gặp nạn tháng 8/2000. Toàn bộ thủy thủ đoàn bỏ mạng dưới đáy đại dương. Và kỳ lạ thay, con tàu xấu số được đặt theo chính tên thành phố Krusk. Các chuyên gia thấy rằng nhà tiên tri huyền thoại này đã đưa ra những cảnh báo chính xác về các sự kiện liên quan đến căng thẳng vũ trang ở Nam Ossetia. Vanga nói chiến tranh thế giới thứ ba là hệ quả tất yếu của sự đấu tranh sinh tồn giữa bốn người đứng đầu các chính phủ và sự xung đột của những người theo đạo Hinđu. Nhân loại liệu có đứng trước một thảm họa nữa không khi Vanga dự đoán chiến tranh thế giới thứ 3 sẽ nổ ra vào năm 2010. Cuộc đời là những thước phim Vanga không biết chữ, bà cũng chưa từng viết một cuốn sách nào. Giọng nói của bà rất khó nghe và nặng thổ ngữ. Những gì Vanga nói hoặc được cho là do bà tiên đoán chủ yếu được ghi chép lại bởi những người xung quanh bà. Sau này, vô số những quyển sách bí truyền về cuộc đời và những tiên đoán của Vanga đã được viết ra. Theo Vanga thì khả năng phi thường của bà liên quan đến sự hiện diện của những sinh vật vô hình, dù bà không thể giải thích rõ ràng nguồn gốc của chúng. Những sinh vật đó cho bà thông tin về con người. Cuộc sống của tất cả mọi người đứng trước bà hiển hiện giống như những thước phim từ lúc sinh ra đến khi nằm xuống. Tuy nhiên bà không có quyền năng thay đổi số phận. Vanga từng dự đoán về những đứa trẻ mới chào đời và cả những sinh linh chưa ra đời. Bà cũng tuyên bố rằng bà đang “nhìn thấy” và “nói chuyện” với những người đã chết cách đây hàng trăm năm. Vanga thậm chí bảo rằng những người ngoài hành tinh đã đang sống trên trái đất từ rất lâu rồi. Họ đến từ những hành tinh mà ở đó dùng thứ ngôn ngữ Vamfirm. Những người theo Vanga tin rằng bà biết chính xác ngày chết của mình. Và chỉ không lâu trước ngày đó, bà nói có một cô bé tóc vàng 10 tuổi sống ở Pháp sẽ thừa hưởng những khả năng trời phú của bà, và rằng loài người sẽ sớm tìm ra cô bé đó. Những lời tiên đoán kinh hoàng về tương lai! Theo lời của Vanga, trong tương lai không xa sẽ xảy ra các vụ mưu sát 4 nhà lãnh đạo chính phủ. Những cuộc xung đột ở Indostan (phần đất ở Nam Á bao gồm Ấn Độ, Afghanistan, Pakistan, Trung Quốc, Tây Tạng) sẽ là một trong những nguyên nhân chính mở màn cho cuộc chiến tranh thế giới thứ 3. 
Năm 2010 - Năm bắt đầu cuộc chiến tranh thế giới thứ 3. Cuộc chiến tranh này sẽ bắt đầu vào tháng 11/2010 và kết thúc vào tháng 10/2014. Ban đầu, cuộc chiến tranh diễn ra bình thường, tiếp đó sẽ xuất hiện hàng loạt vũ khí hạt nhân và cuối cùng là vũ khí hóa học.
Năm 2018 - Trung Quốc sẽ trở thành cường quốc thế giới mới. Những nước phát triển sẽ trở thành kẻ bóc lột các nước khác từ việc khai thác các nguồn tài nguyên khoáng sản. 
Năm 2023 - Quỹ đạo Trái đất thay đổi. 
Năm 2025 - Xuất hiện một bộ phận nhỏ người di cư đến Châu Âu.
Năm 2028 - Loài người sẽ tạo ra một nguồn năng lượng mới, kiểm soát được các phản ứng nhiệt hạch và nạn đói dần dần được khắc phục. Cũng trong thời gian này, con tàu vũ trụ có người lái lần đầu tiên sẽ đổ bộ lên sao Kim. 
Năm 2033 - Băng ở các vùng cực sẽ tan chảy. Mực nước ở Thái Bình Dương sẽ dâng cao. 
Năm 2043 - Nền kinh tế thế giới phát triển rất phồn thịnh. Người Hồi giáo sẽ cai trị toàn bộ lãnh thổ Châu Âu. 
Năm 2046 - Bất kỳ cơ quan nào trong cơ thể người điều có thể được tiến hành cấy ghép. Việc thay thế các cơ quan trong cơ thể sẽ trở thành một trong những phương pháp chữa bệnh hữu hiệu nhất. 
Năm 2066 - Trong lúc tấn công thành Roma của người hồi giáo, Mỹ sẽ lợi dụng một loại hình vũ khí mới - vũ khí thời tiết. Trong thời gian này, trời trở lạnh đột ngột. 
Năm 2076 - Xã hội không giai cấp hay còn gọi là Chủ nghĩa Cộng sản hình thành. 
Năm 2084 - Loài người Sẽ khôi phục lại thiên nhiên. 
Năm 2088 - Xuất hiện một căn bệnh lạ “lão hóa chỉ trong vài giây!!!”.
Năm 2097 - Căn bệnh lão hóa khủng khiếp này sẽ lan tràn trên toàn cầu. 
Năm 2100 - Loài người sẽ tạo ra những mặt trời nhân tạo chiếu sáng phần tối của quả đất. 
Năm 2111 - Con người sẽ trở nên kiệt sức.
Năm 2123 - sẽ xảy ra các cuộc chiến tranh giữa những nước nhỏ.
Năm 2125 - Tại Hung-ga-ri, người ta sẽ nhận được những tín hiệu lạ từ vũ trụ. Cùng thời gian này, loài người lại một lần nữa tưởng nhớ về nữ tiên tri Vanga. 
Năm 2130 - Nhiều vùng đất sẽ bị ngập trong nước. 
Năm 2164 - Con người sẽ biến thành một loài động vật kinh dị (nửa người, nửa thú).
Năm 2167 - Xuất hiện tôn giáo mới. 
Năm 2170 - Xảy ra một đợt hạn hán kéo dài trên Trái đất. 
Năm 2187 - Hai miệng núi lửa lớn nhất thế giới sẽ ngừng quá trình phun trào nham thạch. 
Năm 2195 - Những quốc gia dọc bờ biển sẽ trở nên khá giả cả về năng lượng lẫn lương thực. 
 Năm 2196 - Người Châu Á và Châu Âu sẽ sinh sống trà trộn nhau. 
Năm 2201 - Quá trình phản ứng nhiệt hạch trên Mặt trời sẽ chấm dứt và bắt đầu thời kỳ nguội lạnh. 
Năm 2221 - Trong quá trình tìm kiếm sự sống ngoài Trái đất, loài người sẽ có cuộc chạm trán rùng rợn. 
Năm 2256 - Tàu vũ trụ mang một căn bệnh khủng khiếp về Trái đất. 
Năm 2262 - Quỹ đạo của các hành tinh dần bị thay đổi. Cũng thời gian này, sao Chổi sẽ đe dọa đến sự sống còn của sao Hỏa. Năm 2271 - Các hằng số vật lý lại một lần nữa bị thay đổi. 
Năm 2273 - Xảy ra sự xáo trộn giữa các chủng tộc da màu: da vàng, da trắng và da đen. Tiếp đó sẽ xuất hiện các chủng tộc mới. Năm 2279 - Loài người sẽ lấy năng lượng từ khoảng chân không hoặc từ những lỗ đen. 
Năm 2288 - Xuất hiện những cuộc va chạm với người ngoài hành tinh. 
Năm 2291 - Mặt trời trở nên nguội lạnh và sau đó lại bùng cháy trở lại. 
Năm 2296 - Mặt trời hoạt động mạnh hơn, lực hút vũ trụ bị thay đổi làm cho các trạm vũ trụ và vệ tinh rơi vào tình trạng hỗn loạn, mất phương hướng. 
Năm 2299 - Tại Pháp xuất hiện một Đảng mới chống lại người theo Đạo hồi. 
Năm 2302 - Phát hiện quy luật và bí mật mới của vũ trụ. 
Năm 2304 - Khám phá bí mật Mặt trăng Năm 2341 - Xuất hiện một thiên thể vô cùng nguy hiểm tiến gần Trái đất.
Năm 2354 - Một trong những mặt trời nhân tạo bị hỏng, kết quả dẫn tới đợt hạn hán kéo dài.
Năm 2371 - Xẩy ra nạn đói lớn. 
Năm 2378 - Các bộ tộc mới nhanh chóng được hình thành.
Năm 2480 - Hai mặt trời nhân tạo va vào nhau, Trái đất bị rơi vào tình trạng hỗn loạn. 
Năm 3005 - Xuất hiện các “cuộc chiến” mới trên sao Hỏa, quỹ đạo của các hành tinh bị rối loạn. 
Năm 3010 - Sao chổi sẽ va vào Mặt trăng, quanh Trái đất lúc này xuất hiện một vành đai toàn đá và bụi. 
Năm 3797 - Đây là thời kỳ kết thúc sự sống trên Trái đất. Thời gian này cũng là cơ sở để loài người bắt đầu cuộc sống mới trên một “hệ Mặt trời” khác.

4 nhận xét:

NGUYỄN ĐÌNH ĐỨC nói...

CHỚ BỎ QUA CÁC LỚI TIÊN TRI! NHÀ TIÊN TRI LÀ NGƯỜI CÓ KHẢ NĂNG "ĐỌC" ĐƯỢC TƯƠNG LAI NHỜ MỘT KHẢ NĂNG ĐẶC BIỆT TRỜI PHÚ CHO! BẠN DÙ MUỐN CŨNG KHÔNG THỂ CÓ ĐƯỢC NẾU DUYÊN PHẦN KHÔNG PHẢI LÀ CỦA BẠN!

NGUYỄN ĐÌNH ĐỨC nói...

TIÊN TRI- LUÔN LÀ ƯỚC VỌNG CỦA CON NGƯỜI!

NGUYỄN ĐÌNH ĐỨC nói...

TIÊN TRI LÀ KHOA HỌC DỰ ĐOÁN

NGUYỄN ĐÌNH ĐỨC nói...

BẠN CÓ THỂ ĐỌC THẤY NHỮNG CÂU SẤM TRẠNG TRÌNH ỨNG NGHIỆM ĐÚNG THỜI SỰ NGÀY NAY