Nơi
phát tích Vương triều Nguyễn
09:28:00
09/02/2011
Các
nhà văn Huế đã tổ chức chuyến "hành hương" về thăm Gia Miêu ngoại
trang, nơi phát tích của Vương triều Nguyễn ở thôn Gia Miêu, xã Hà Long,
tỉnh Hà Trung, Thanh Hoá.
Có
lẽ người miền Nam, ngay cả dòng họ Nguyễn Phúc cũng không nhiều người đã
đến thăm Gia Miêu ngoại trang, quê hương của chúa Nguyễn Hoàng, thắp nén
nhang lên mộ tổ Nguyễn Kim, bày tỏ niềm tri ân đối với những người mở cõi
để mình được là con dân của một nước Việt Nam hình chữ S như bây giờ… Cho
nên chuyến đi Gia Miêu lần này có ý nghĩa như tìm về cội nguồn.
Đi
tìm đất quý hương
Vua
Gia Long, từ hơn 200 năm trước đã phong cho Gia Miêu là đất quý hương. Theo
đường quốc lộ 1A từ Bắc vào, đi qua Bỉm Sơn tìm mãi mới thấy biển đề lấp
kín sau bụi cây: Gia Miêu ngoại trang. Cái ngành du lịch Thanh Hoá đến lạ.
Gia Miêu ngoại trang đã được nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử văn hoá cấp
Quốc gia, thế mà chẳng có cái biển chỉ dẫn đường sá cho đàng hoàng. Ngay cả
Thành nhà Hồ từ phía Gia Miêu, Hà Trung đi lên Vĩnh Lộc để vào cửa
Đông, không hề có một biển chỉ dẫn nào. Xe chúng tôi cứ vài chục mét lại
dừng để hởi. Nước ta đã làm du lịch trên 25 năm rồi, sao mà nhiều nơi vẫn
lạnh nhạt với di tích đến vậy!
Đường
lên Gia Miêu, mấy phút chúng tôi lại dừng xe hỏi. Đến Gia Miêu rồi
cũng không thấy biển chỉ dẫn nào. Chúng tôi chợt thấy cái biển gỗ nhỏ
xíu đề chữ đỏ viết vội bên phải "Nhà thờ họ Nguyễn Hữu". Sao lại
là Nguyễn Hữu? Chúng tôi dừng lại hỏi, thì gặp ông Nguyễn Hữu Toại,
là một trong những hậu duệ dòng Nguyễn Hữu. Ông Toại giải thích Nguyễn Hữu
là một nhánh trong dòng họ 20 đời của Định Quốc Công Nguyễn Bặc (924 - 979)
người Hoằng Hóa - Thanh Hóa, có công giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân
để lập ra triều Đinh đóng đô ở Hoa Lư mà đoàn nhà văn chúng tôi vừa ghé
thăm hôm qua.
Nói
rồi ông Nguyễn Hữu Toại cầm bản đồ gia hệ, sách lịch sử họ Nguyễn lên xe
dẫn chúng tôi đến thôn Gia Miêu 2, nơi có nhà thờ của dòng họ Nguyễn Hữu có
đề 6 chữ quốc ngữ: Bình ngô khai quốc công thần. Cả một chi họ lớn thế mà
cái nhà thờ tổ bé bằng ngôi nhà rường nhỏ ở Huế. Ngôi nhà nhỏ nhưng ở trong
có bàn thờ ba cấp uy nghiêm lắm. Tượng, bài vị đều sơn son thiếp vàng.
Theo
ông Toại thì ở đây là nơi thờ tự ông tổ là Nguyễn Công Duẩn, hậu duệ đời
thứ 10 của Nguyễn Bặc, bên dưới thờ Nguyễn Đức Trung và Nguyễn Văn Lang,
Nguyễn Kim (Cam). Theo sử sách thì Nguyễn Công Duẩn, lập nhiều chiến tích
trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn , được Lê Lợi giao trách nhiệm lo hậu cần vận
lương cho cuộc kháng chiến, ông Duẫn đều lo chu tất. Ông được phong tước
Thái Bảo Hoành công, con cháu được đời đời làm công thần nhà Lê. Hậu duệ
của Nguyễn Công Duẩn cuối đời Hậu Lê là Nguyễn Kim.
Đền thờ nhánh Nguyễn Hữu ở Gia Miêu 2.
Nguyễn
Kim là một tướng giỏi, có nhiều công lao được phong tước An Thành Hầu. Khi
nhà Hậu Lê bị nhà Mạc cướp ngôi, năm 1527, con cháu nhà Lê chạy trốn sang
Lào. Lúc bấy giờ, hầu hết các cựu thần nhà Lê ngả về họ Mạc hoặc bỏ đi nơi
khác, chỉ có Nguyễn Kim là lo chiêu tập hào kiệt bốn phương lánh lên Sầm
Châu vùng Thanh Hoá giáp Lào lập bản doanh phò Lê diệt Mạc. Sau đó ông đã
tìm được con vua Lê là Lê Duy Ninh ở Lào và đưa về tôn lên ngôi vua là Lê
Trang Tông (1533-1548). Nguyễn Kim về sau được vua Lê phong làm Thái Sư
Hưng Quốc Công, nắm giữ tất cả binh quyền.
Năm
1545, hàng tướng nhà Mạc Dương Chấp Nhất đầu độc bằng cách tẩm thuốc độc
vào trong quả dưa hấu và dâng lên Nguyễn Kim. Thế là ông trúng độc
mất khi 78 tuổi. Vua Lê đã truy tặng cho Nguyễn Kim tước Chiêu Huân Tĩnh
Vương. Ông có hai con trai đều là tướng giỏi được phong chức Quận công.
Trong đó có Nguyễn Hoàng trở thành người mở đầu cho sự nghiệp của các chúa
Nguyễn ở phía Nam. Nguyễn Hoàng được vua Lê phong tước Thái úy Đoan Quốc
Công. Năm 1558, người ta bảo nghe Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm gợi ý
Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân, ông xin vào trấn thủ Thuận Hoá, đóng
đô ở Ái Tử, Quảng Trị thành Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1558 - 1613) .
Có
nguồn sử liệu ghi: Nguyễn Công Duẩn có 7 người con trai, sau phân thành 7
chi. Chi 4 là Nguyễn Như Trác sinh Nguyễn Văn Lưu. Văn Lưu sinh ra Nguyễn
Kim. Hiện nay có tới 7 bộ gia phả họ Nguyễn. Có gia phả chép là Nguyễn Trãi
(1380-1442) là hậu duệ thứ 11 của Nguyễn Bặc, Khi Nguyễn Trãi bị tru di tam
tộc sau vụ án oan khiên Lệ Chi Viên, có 2 người con của Nguyễn Trãi còn
sống và được bổ dụng sau này.
Một
người con cả là Nguyễn Công Duẩn từng tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, không có
mặt ở nhà khi cả họ bị hình nên thoát nạn. Người con nhỏ là con của một
người vợ thứ của Nguyễn Trãi đã có mang cũng trốn thoát khi cả nhà bị hình,
sau sinh được Nguyễn Anh Vũ. Gia phả họ Nguyễn còn ghi: sau này 2 chi của
Nguyễn Công Duẩn và Anh Vũ trở thành hai ngành nổi tiếng trong lịch sử Việt
Nam, một ngành là các Chúa Nguyễn và một ngành là họ Nguyễn Hữu có Nguyễn
Hữu Dật (Gia Miêu ) cũng là khai quốc công thần của Chúa Nguyễn ở Đàng
Trong mà hậu duệ có Nguyễn Hữu Cảnh, ông tổ khai canh của đất Sài Gòn Gia
Định. Tướng tài Nguyễn Hữu Cảnh lớn lên ở Quảng Bình có công lớn giúp các
chúa Nguyễn mở cõi về phía Nam 300 năm trước (Sách Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu
Cảnh (1997 của Nguyễn Ngọc Hiên và sách Tông phả kỉ yếu tân biên
(2006) của Phạm Côn Sơn).
Tuy
nhiên, cũng có nhiều sử gia đã khảo cứu nhiều nguồn tài liệu, gia phả họ
Nguyễn khác cũng như các sử sách để lại, thì cho rằng: Nguyễn Trãi không
phải ông tổ của các Chúa Nguyễn. Theo một số nhà nghiên cứu, gia phả này
chép lẫn gia phả họ Nguyễn Gia Miêu vào họ Nguyễn Nhị Khê (Nguyễn Trãi - ở
Hà Tây ) do phải trốn tránh họa tru di. Có lẽ giả thuyết này có lý hơn.
Lăng Trường Nguyên
Sau
khi thắp nhang bái lạy tổ Nguyễn Công Duẩn ở Nhà thờ họ Nguyễn Hữu, ông
Toại dẫn chúng tôi đi thăm lăng mộ Nguyễn Kim. Rẽ trái khoảng cây số là đến
vùng núi Triệu Tường, Thiên Tôn. Đây là Lăng Trường Nguyên, còn gọi là Lăng
Triệu Tường, là nơi hợp táng ông bà Nguyễn Kim và Hoàng hậu triều Nguyễn -
thân sinh và thân mẫu của chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Rừng Thiên Tôn bây giờ đã
thưa thớt, nhưng từ lăng Triệu Tổ Nguyễn Kinh nhìn lên núi non cũng uy
nghiêm lắm.
|
Đền thờ Nguyễn Kim ở làng Gia Miêu 3.
|
Theo
ông Toại, còn có Miếu Triệu Tường cách đây hơn cây số. Theo nhà văn Nguyễn
Đắc Xuân, Miếu Triệu Tường xây dựng ở cánh đồng tại thung lũng chân núi,
cách khu vực lăng trên dưới 1km. Miếu Triệu Tường thờ gốc tổ triều Nguyễn,
gồm nhiều kiến trúc bố trí trong một khu vực chu vi đo được 182 trượng, bao
quanh có hồ nước và cầu gạch bắc qua, lại có hai lớp lũy bao bọc được xây
dựng năm 1834 - 1835. Vì thế Miếu Tường còn có tên Thành Thiên Tôn hay
Thành Triệu Tường.
Không
gian bên trong Thành Triệu Tường chia làm 3 khu vực: Khu vực chính ở giữa
xây Miếu thờ Nguyễn Kim và Nguyễn Hoàng. Khu vực phía đông dựng miếu thờ
Trừng Quốc Công (Nguyễn Văn Lưu- thân phụ của Nguyễn Kim), khu vực phía tây
dành làm nơi trú ngụ của các quan và gia đình hộ lăng và trại lính canh
lăng. Tất cả đều do các vua Nguyễn như Gia Long, Minh Mạng xây dựng. Từ
ngày nhà Nguyễn sụp đổ (9-1945), Chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn một thời
bị cho là "phản động"… nên các lăng miếu ấy trở nên đổ nát, hoang
tàn.
Năm
2007, lăng Triệu Tường được trùng tu khôi phục lại nơi thờ vọng, bia và nhà
bia ở chân núi và lăng thờ Nguyễn Kim kinh phí hết 300 triệu do bà con tộc
Nguyễn Phúc, Nguyễn Hữu quyên góp. Đường vào lăng Nguyễn Kim đúc bê
tông rộng rãi. Làng Gia Miêu xưa bây giờ chia thành 3 làng : Gia Miêu
1, Gia Miêu 2, Gia Miêu 3. Lăng Triệu Tổ Nguyễn Kim thuộc địa phận làng Gia
Miêu 3.
Ở
lăng bia Nguyễn Kim có tấm bia đá khắc công tích của Đức Triệu Tổ
Nguyễn Kim. Có bức tường khắc bản dịch của vua Thiệu Trị dịch bài minh bằng
chữ Hán của vua Minh Mạng vào năm Minh Mạng thứ 3 (1822), Nội dung như sau:
"Đất
lớn chúa Thiêng sinh ra Triệu Tổ/ Vun đắp cương thường nên rạng thánh võ/
Nghĩa động quỉ thần công truyền vũ trụ/ Cõi trần rời bỏ lăng ở bái trang/
Non nước bao bọc sấm mắt tùng xanh/ Khí thiêng nhóm họp đời đời xưng vinh/
Mệnh trời đã giúp con cháu tinh anh/ Võ công dựng nước bèn tìm gốc nguồn/
Tuy tôn dựng miếu lăng gọi Trường Nguyên/ Tân tuy Bắc tuần đến đây dựng
lại/ Trông ngắm non sông nhớ đến gốc cõi/ Khắc chữ vào bia lưu ức vạn tài" .
Theo
ông Nguyễn Hữu Toại, sau khi Di tích Gia Miêu được công nhận là Di tích
lịch sử văn hoá cấp quốc gia, Miếu Triệu Tường, Đình Gia Miêu, những
di tích quan trọng của đất thiêng Gia Miêu ngoại trang, chính quyền tỉnh
Thanh Hoá đã có kế hoạch đầu tư lớn để phục dựng và bảo tồn. Nghe mà phấn
chấn trong lòng.
Về
cái chết của Triệu Tổ Tĩnh Hoàng đế Nguyễn Kim, ở lăng Trường Nguyên có bài
ghi công đức có đoạn: "Năm Ất Tỵ (1545), ngài tiến quân ra Đông Đô,
nhưng bị lụt phải trở về đóng quân ở Yên Mô (Ninh Bình). Ngài bị hàng tướng
(tướng đã về hàng địch) nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đầu độc bằng cách
tẩm thuốc độc vào quả dưa dâng lên. Ông mất ngày 20 tháng 5 năm Ất Tỵ (
26/6/1545). Linh cữu ngài được đưa về Bái Trang, huyện Tống Sơn (bây giờ là
Hà Trung), Thanh Hoá, táng tại núi Thiên Tôn. Để tránh bị các thế lực thù
địch quật phá trừ diệt, họ Nguyễn đã giữ bí mật nơi táng ông và sau đó là
bà chánh hậu Nguyễn Thị Mai (Triệu Tổ Tĩnh Hoàng hậu).
Ông
Toại kể giai thoại về việc thiên táng ông bà Triệu Tổ Nguyễn Kim như sau:
để giữ bí mật huyệt mộ của ông bà Nguyễn Kim, người ta đã dựng lên một
huyền thọai: Ở vùng núi Triệu Tường vốn đã có một long khẩu (miệng rồng).
Đến khi vừa đưa quan tài vua Triệu Tổ Nguyễn Kim vào thì bỗng nhiên trời đổ
xuống một trận mưa gió sấm sét dữ dội. Người đi đưa tang hoảng sợ chạy tán
loạn. Đến khi gió bão đi qua, cơn mưa cũng tạnh mọi người trở lại thì chỉ
còn thấy núi đá chi chít, cây cỏ um tùm, không thể nào nhận ra được nơi có
long khẩu chứa quan tài của Triệu Tổ ở đâu nữa cả. Về sau có ai hỏi lăng mộ
Triệu Tổ Nguyễn Kim an táng nơi đâu, những người có trách nhiệm trả lời:
"Ngài được hổ táng, thiên táng nên không thể biết". Khi có tế lễ,
họ tộc và các chức sắc nhà Nguyễn cũng chỉ hướng vào vùng núi Triệu Tường
mà vọng bái thôi. Ôi, người tài giỏi thời nào cũng thế, chết không
yên thân, không mồ yên mả đẹp!
Phần kết
Rời
Gia Miêu ngoại trang, tôi cứ miên man nghĩ về miền địa linh nhân kiệt Thanh
Hoá. Quả thực không nơi nào sinh ra lắm người tài làm vua, chúa như mảnh
đất "khu Bốn đẩy ra, khu Ba đẩy vào" này. Thanh Hoá là quê hương
của vua chúa thời Tiền Lê, Sơ Lê, Lê Trung Hưng, Lê Hoàn, Lê Thái Tổ, Hồ
Quý Ly… Xứ Vĩnh Lộc, Thanh Hoá là quê hương của Trịnh Kiểm, người mở đầu
cho 12 đời chúa Trịnh 249 năm ròng. Rồi Gia Miêu ngoại trang là quê hương
của 9 chúa, 13 vua Vương triều Nguyễn: bắt đầu từ 1558, kết thúc năm 1945,
kéo dài 387 năm. Một chặng đường lịch sử dằng dặc .. .
Các
chúa, vua Nguyễn có nhiều khiếm khuyết trong lịch sử, nhưng họ chính
là triều đại đã mở cõi tạo nên dáng hình Tổ Quốc hôm nay. Công lao đó
là vô cùng lớn. Đó là điều không thể phủ nhận. Ngay một ông vua nhiều tai
tiếng nhất Nguyễn Phúc Ánh, tức vua Gia Long, năm 1802, lên ngôi Hoàng đế
cũng đặt niên hiệu là Gia Long (Gia là Gia định, Long là Thăng Long), thể
hiện ý thức quyết liệt của mình. Đó là việc thống nhất toàn vẹn đất nước.
Lịch sử Vương triều Nguyễn đã tạo nên nhiều biến cố ở Đại Việt.
Tất cả đều phát tích từ một vùng thôn quê rất hẻo lánh: Gia Miêu ngoại
trang. Đó là sự lạ lùng của lịch sử
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét