NGUỒN INTERNET- DINHDUC SƯU TẦM
Mời các bạn thưởng thức lời tiên tri của các nhà Tiên Tri nổi tiếng thế giới:
1. Việt Nam - Sấm Trạng Trình
SAU ĐÂY LÀ CÁC GIAI THOẠI VỀ TÀI TIÊN TRI CỦA TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM
CHÂN DUNG TT NGUYỄN BỈNH KHIÊM
(VĂN MIẾU TRẤN BIÊN- BIÊN HÒA- ĐỒNG NAI)
Tiên tri
Khi theo học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng, ông được truyền cho quyển Thái Ất thần kinh từ đó ông tinh thông về lý học, tướng số... Sau này, dù Nguyễn Bỉnh Khiêm không còn làm quan nhưng vua Mạc Hiến Tông (Mạc Phúc Hải) vẫn phong cho ông tước Trình Tuyền hầu vào năm Giáp Thìn (1544), ngụ ý đề cao ông có công khơi nguồn ngành lý học, giống như Trình Y Xuyên, Trình Minh Đạo bên Trung Hoa. Sau đó được thăng chức Thượng thư bộ Lại tước hiệu Trình quốc công.
Nhờ học tính theo Thái Ất, ông tiên đoán được biến cố xảy ra 500 năm sau này. Người Trung Hoa khen Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là "An Nam lý số hữu Trình Tuyền". Ông tinh thông về thuật số, được dân gian truyền tụng và suy tôn là "nhà tiên tri" số một của Việt Nam. Ông đã cho ra đời hàng loạt những lời tiên tri cho hậu thế mà người đời gọi là "Sấm Trạng Trình".
Tương truyền, ông là người đã đưa ra lời khuyên giúp các nhà Nguyễn, Mạc, Trịnh, Lê. Khi Nguyễn Hoàng sợ bị anh rể Trịnh Kiểm giết, ông khuyên nên xin về phía nam với câu "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân" (có tài liệu viết là "khả dĩ dung thân") nghĩa là "Một dải Hoành Sơn có thể dung thân lâu dài". Nguyễn Hoàng nghe theo và lập được nghiệp lớn, truyền cho con cháu từ đất Thuận Hoá. Lúc nhà Mạc sắp mất cũng sai người đến hỏi ông, ông khuyên vua tôi nhà Mạc "Cao Bằng tuy thiểu, khả diên sổ thế" (tức Cao Bằng tuy nhỏ, nhưng có thể giữ được vài đời). Nhà Mạc theo lời ông và giữ được đất Cao Bằng gần 80 năm nữa. Đối với Lê - Trịnh, khi vua Lê Trung Tông chết không có con nối, Trịnh Kiểm định thay ngôi nhà Lê nhưng còn sợ dư luận nên sai người đến hỏi ông. Ông nói với chú tiểu, nhưng thực ra là nói với bề tôi họ Trịnh: "Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản" (ý nói giữ là bề tôi của các vua Lê thì lợi hơn). Trịnh Kiểm nghe theo, sai người tìm người tôn thất nhà Lê thuộc chi Lê Trừ (anh Lê Lợi) đưa lên ngôi, tức là vua Lê Anh Tông. Họ Trịnh mượn tiếng thờ nhà Lê nhưng nắm thực quyền điều hành chính sự, còn nhà Lê nhờ họ Trịnh lo đỡ cho mọi chuyện chính sự, hai bên nương tựa lẫn nhau tồn tại tới hơn 200 năm. Bởi thế còn có câu: "Lê tồn Trịnh tại".
Tiên tri về nhà Tây Sơn dấy nghiệp:
Hai câu:
"Chấn cung xuất nhật
Đoài cung vẩn tinh"
Nghĩa là:
Mặt trời xuất hiện ở phương Đông
Sao sa ở phương Tây"
Theo bát quái, có tám cung là: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Chấn thuộc về phương Đông. Theo Kinh Dịch cung Chấn thuộc về người trên. Ý muốn nói người anh cả của họ Nguyễn Tây Sơn là Nguyễn Nhạc sẽ dấy nghiệp. Sao sa ở phương Tây: ý nói nhà Tây Sơn xuất hiện.
Hai câu:
"Hà thời biện lại vi vương
Thử thời Bắc tận, Nam trường xuất bôn"
Nghĩa là:
Làm thế nào thời ấy tên Biện Lại làm vua.
Lúc ấy Bắc cũng hết, Nam cũng chạy.
Hai câu trên đây ám chỉ Nguyễn Nhạc tên Biện Lại ở huyện Vân Đồn (Bình Định) khởi nghĩa dấy binh tự xưng là Tây Sơn Vương. Nhà Tây Sơn nổi lên diệt Chúa Trịnh ở phương Bắc, đuổi Chúa Nguyễn ở phương Nam lập nên đế nghiệp.
Sáu câu:
"Bao giờ trúc mọc qua sông,
Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây,
Đoài cung một sớm đổi thay,
Chấn cung sao cũng sa ngay không còn,
Đầu cha lộn xuống chân con,
Mười bốn năm tròn hết số thì thôi."
Câu đầu ứng nghiệm việc Tôn Sỹ Nghị đem quân Thanh sang cướp nước ta. Khi đến thành Thăng Long, Sỹ Nghị cho quân sĩ bắc một chiếc cầu nổi bằng tre ngang sông Hồng.
Câu 2, sau khi dẹp được giặc Thanh một cách oai hùng ở trận Đống Đa, Nguyễn Huệ xưng là Quang Trung Hoàng Đế.
Câu 3, sau hai năm lên ngôi vua, Hoàng Đế Quang Trung mất. Đoài cung ở câu này có nghĩa là phương Tây. Theo Kinh Dịch cung Đoài là phận dưới, ý nói người em của nhà Tây Sơn là Nguyễn Huệ mất.
Câu 4, sau khi vua Quang Trung mất, Nguyễn Nhạc vì tức vua Cảnh Thịnh tức Nguyễn Quang Toản (con của Quang Trung) chiếm thành Quy Nhơn và tịch biên tài sản nên thổ huyết mà chết.("Chấn cung" ở câu 4 ám chỉ Nguyễn Nhạc. Theo Kinh Dịch cung Chấn là người trên, người anh của nhà Tây Sơn.)
Câu 5, ám chỉ tên của vua Quang Trung và vua Cảnh Thịnh (con của Quang Trung). Theo phép chiết tự, chữ "Quang" của vua Quang Trung có chữ "tiểu" ở trên. Chữ "Cảnh" của vua Cảnh Thịnh lại có chữ "tiểu" ở phía dưới. Cho nên mới gọi là "đầu cha lộn xuống chân con".
Câu 6, ám chỉ nhà Tây Sơn chỉ làm vua được 14 năm là dứt.
Tiên tri về việc phong hầu cho dân làng Vĩnh Lại:
Hai câu:
"Bao giờ ngựa đá qua sông
Thì dân Vĩnh Lại quận công cả làng"
Nguyên làng Vĩnh Lại là quê nhà của Trạng Trình. Dân chúng ở Vĩnh Lại thấy thiên hạ đồn đãi ông là người tiên tri biết trước được mọi việc sẽ xảy ra, liền yêu cầu ông đoán cho biết tương lai của dân chúng ở Vĩnh Lại. Trạng Trình chỉ nói xa, nói gần mà không chịu nói rõ, viện cớ là "Thiên cơ bất khả lậu". Nhiều người không hài lòng cho rằng ông có thâm ý. Thấy vậy, ông liền cho người đắp một con ngựa đá đặt ở bên bờ sông làng Vĩnh Lại. Lâu ngày đất cát bồi thành, giống như con ngựa đá qua sông thật. Lại cho khắc vào mình ngựa đá hai câu sấm trên. Dân chúng ở làng Vĩnh Lại đọc được hai câu sấm truyền và thấy ngựa đá sang sông Vĩnh Lại rất vui mừng cho rằng hồng phúc đã đến cho dân làng, ngày ngày mong đợi sự ứng nghiệm.
Về sau, khi vua Lê Chiêu Thống lánh nạn Tây Sơn, trốn qua làng Vĩnh Lại, dân chúng đều một lòng ủng hộ vua chống lại Tây Sơn. Vua Lê sẵn ấn tín đem theo bên mình liền phong tước hầu cho người cầm đầu nhóm dân làng. Tin ấy truyền ra, dân chúng tranh nhau xin nhà vua phong tước hầu cho mình. Sợ dân chúng sinh lòng phản trắc có hại cho mình, nhà vua liền phong tước hầu cho tất cả dân làng. Vua Lê Chiêu Thống trú ngụ tại làng Vĩnh Lại một thời gian, nhận thấy không thể nhờ dân làng mà khôi phục nghiệp cả được, liền trốn sang Tàu với các thuộc hạ để cầu viện binh với nhà Thanh. Tướng Tây Sơn là Vũ Văn Nhậm nghe tin vua Lê trốn tại Vĩnh Lại đem quân đến bắt, nhưng chậm mất. Biết được dân làng Vĩnh Lại chống Tây Sơn nên được phong tước hầu, liền hạ lệnh cho binh sĩ giết hại dân làng rất nhiều. Dân làng Vĩnh Lại vì khát vọng công danh nên chịu thiệt mạng oan uổng.
Tiên tri về tương lai nhà Nguyễn:
Hai câu: "Phụ nguyên chính thống hẳn hoi.
Tin dê lại mắc phải mồi đàn dê"
Ý nói nhà Nguyễn mới là dòng dõi chính thống của nhà vua. Vua Gia Long nhờ sự trợ giúp của người Pháp để diệt nhà Tây Sơn thống nhất đất nước. Nhưng rồi nhà Nguyễn cũng mất chủ quyền về tay người Pháp. Chữ "dê" nghĩa Hán là "dương" ám chỉ người Tây phương.
Bốn câu:
"Để loài bạch quỹ Nam xâm
Làm cho trăm họ khổ trầm lưu ly
Ngai vàng gặp buổi khuynh nguy
Gia đình một ở ba đi dần dần"
Hai câu đầu ám chỉ việc thôn tính của người Pháp ở Việt Nam làm cho dân chúng muôn phần khốn khổ, gây bao cảnh chia lìa.
Hai câu kế, vì chống lại sự xâm lăng của Pháp, ba vị vua của nhà Nguyễn từ trước đến sau là: Hàm Nghi (bị đày sang Algieria), Thành Thái và Duy Tân (bị đày sang đảo Reunion) chỉ còn một mình Khải Định ở lại làm vua kế nghiệp nhà Nguyễn ứng nghiệm vào câu: "Gia đình một ở ba đi dần dần".
Tiên tri những cuộc khởi nghĩa kháng Pháp:
Hai câu:
"Kìa kìa gió thổi lá rung cây
Rung Bắc, rung Nam, Đông tới Tây
Sau ngày giặc Pháp thôn tính nước ta, các phong trào Cần Vương trong nước, các Đảng Văn Thân nổi lên khắp nơi.
Bốn câu:
"Tan tác KIẾN kiều AN đất nước,
Xác xơ CỔ thụ sạch AM mây.
LÂM giang nổi sóng mù THAO cát,
HƯNG địa tràn dâng HÓA nước đầy."
Ứng nghiệm vào cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng kháng Pháp tại KIẾN AN, CỔ AM, LÂM THAO và HƯNG HÓA.
Tiên tri Toàn quyền Đông Dương Pasquier tử nạn máy bay:
Hai câu:
"Giữa năm hai bảy mười ba
Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây"
"Tám gà" nghĩa Hán văn là "bát kê". Đúng vào năm âm lịch nhuần hai tháng Bảy mười ba tháng. Ngày 15 tháng 1 năm 1934 nhằm ngày mồng một Tháng Chạp năm Quý Dậu, một năm nhuận, Toàn quyền Đông Dương Pasquier (Bát kê) mãn nhiệm vụ trở về Pháp. Dọc đường, máy bay bị ngộ nạn Pasquier bị chết cháy giữa không trung. Đúng vào câu: "Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây"
Nguồn gốc tên gọi Việt Nam
Cho đến trước thế kỷ 19 (trước khi nhà Nguyễn được thành lập), trong số các tác gia thời trung đại của Việt Nam, Nguyễn Bỉnh Khiêm được xem là người có mối liên hệ mật thiết nhất với hai chữ Việt Nam thông qua các trước tác của ông hoặc có liên quan trực tiếp với ông. Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải (Trung tâm nghiên cứu Tiềm năng con người thuộc Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam) là một trong những nhà nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam khẳng định điều này. Dù chưa có những bằng chứng chắc chắn để khẳng định Nguyễn Bỉnh Khiêm có phải là người đầu tiên sử dụng danh xưng Việt Nam với tư cách là quốc hiệu của dân tộc hay không nhưng nhiều nhà nghiên cứu hiện nay cũng đồng quan điểm với ông Nguyễn Phúc Giác Hải khi cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm có thể là người đầu tiên sử dụng danh xưng Việt Nam một cách có ý thức nhất để gọi tên của đất nước.
Trong các tác phẩm liên quan đến Nguyễn Bỉnh Khiêm, có ít nhất bốn lần danh xưng Việt Nam đã được sử dụng một cách có chủ ý. Điều này cũng góp phần bác bỏ quan điểm cho rằng hai chữ Việt Nam chỉ được Nguyễn Bỉnh Khiêm sử dụng một cách ngẫu nhiên hay tùy hứng mà thôi. Trong kho lưu trữ của Viện Nghiên cứu Hán-Nôm hiện còn lưu giữ nhiều tài liệu cổ (chép tay) về Nguyễn Bỉnh Khiêm có sử dụng danh xưng Việt Nam như một quốc hiệu tiền định. Ngay trong phần đầu của tập Sấm ký có tựa đề Trình tiên sinh quốc ngữ, tên gọi Việt Nam đã được nhắc đến: “Việt Nam khởi tổ xây nền”. Danh xưng Việt Nam còn được sử dụng một lần nữa trong bài thơ chữ Hán của ông có tựa đề Việt Nam sơn hà hải động thưởng vịnh (Vịnh về non sông đất nước Việt Nam). Ngoài ra còn có hai bài thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm gửi hai người bạn thân đồng thời là hai Trạng nguyên của triều Mạc, cho thấy tên gọi Việt Nam được dùng như một sự chủ ý. Bài thứ nhất gửi Trạng nguyên, Thư Quốc công Nguyễn Thiến, hai câu cuối Nguyễn Bỉnh Khiêm viết: Tiền trình vĩ đại quân tu ký / Thùy thị phương danh trọng Việt Nam (Tiền đề rộng lớn ông nên ghi nhớ, Ai sẽ là kẻ có tiếng thơm được coi trọng ở Việt Nam?). Bài thứ hai gửi Trạng nguyên, Tô Khê hầu Giáp Hải, hai câu cuối Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng viết: Tuệ tinh cộng ngưỡng quang mang tại / Tiền hậu quang huy chiếu Việt Nam (Cùng ngửa trông ngôi sao sáng trên bầu trời, Trước sau soi ánh sáng rực rỡ vào nước Việt Nam). Các bài thơ trên còn được chép trong tập thơ chữ Hán của ông là Bạch Vân am thi tập.
Người đời đánh giá
Trạng nguyên, Lại bộ thượng thư Giáp Hải đời Mạc đã viết thơ ca ngợi tài lý học của Nguyễn Bỉnh Khiêm và tên tuổi của ông trong giới Nho gia đương thời cũng như công lao của ông đối với triều Mạc, trong đó có những câu sau: “Chu Liêm Khê hậu hữu Y Xuyên, Lý học vu kim hữu chính truyền”; “Danh quán nho khoa lôi chấn địa, Lực phù nhật cốc trụ kình thiên”; “Tứ triều huân nghiệp nhân trung kiệt, Cửu lão quang nghi thế thượng tiên” (dịch nghĩa: “Sau Liêm Khê lại có Y Xuyên, Lý học ngày nay bậc chính truyền”; “Long bảng đứng đầu tên sấm dậy, Chống trời cột vững sức cường kiên”; “Bốn triều nghiệp lớn tay anh kiệt, Chín lão dung nghi dáng khách tiên”).
Bài văn tế “Môn sinh tế Tuyết Giang phu tử văn” đọc trước linh cữu Nguyễn Bỉnh Khiêm mùa đông năm 1585 do Tiến sĩ Đinh Thì Trung (Đinh Thời Trung) thay mặt các đồng môn soạn ra để tế viếng người thầy của mình. Trong bài văn tế, học trò Đinh Thời Trung đã coi Tuyết Giang phu tử là bậc “muôn chương đọc khắp, học tài chẳng kém Âu, Tô” (Âu Dương Tu và Tô Đông Pha đời Tống), “văn lực không nhường Lý, Đỗ” (Lý Bạch và Đỗ Phủ đời Đường), “một kinh Thái ất thuộc lòng, đốt lửa soi gan Dương Tử” (hiểu rõ lẽ huyền vi của bộ Thái ất như Dương Hùng đời Hán), “suy trước biết sau, học lối Nghiêu Phu môn hộ” (suy trước biết sau chẳng khác nào Thiệu Ung đời Tống) và “một mình Lý học tinh thông, hai nước anh hùng không đối thủ”.
Tiến sĩ đời Lê Trung Hưng, Ôn Đình hầu Vũ Khâm Lân trong bài Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký soạn năm 1743 có những dòng ca ngợi:...Bởi tiên sinh chẳng những chỉ tinh thâm một môn Lý học, biết rõ dĩ vãng cũng như tương lai, mà sự thực thì trăm đời sau cũng chưa dễ ai hơn được vậy. Ôi! Ở trong thiên hạ, các bậc quân vương, các vị hiền giả, hỏi có thiếu chi, nhưng chỉ có lúc sống thì được phú quí vinh hoa, còn sau khi mất thì những cái đó lại cũng mai một đi với thời gian, hỏi còn ai nhắc nữa? Còn như tiên sinh, nói về thế hệ đã truyền đến 7, 8 đời, gần thì sĩ phu dân thứ ngưỡng vọng như bóng sao Đẩu trên trời, dẫu cách ngàn năm cũng còn tưởng như một buổi sớm, xa thì sứ giả Thanh triều tên Chu Xán, nói đến nhân vật Lĩnh Nam cũng đã có câu An Nam Lý học hữu Trình Tuyền tức là công nhận môn Lý học của nước An Nam chỉ có Trình Tuyền là người số một, rồi chép vào sách truyền lại bên Tàu. Như thế, đủ thấy Tiên sinh quả là một người rất mực của nước ta về thời trước vậy.
La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp sống thời nhà Tây Sơn, người được Quang Trung Nguyễn Huệ tôn kính như bậc thầy, từ xứ Nghệ ra Bắc, về trấn Hải Dương mong tìm lại những dấu tích gắn với cuộc đời của Tuyết Giang phu tử (Bạch Vân cư sĩ), đã ngậm ngùi viết trong bài thơ Quá Trình Tuyền mục tự (Qua chùa cũ của Trình Tuyền) khi viếng cảnh xưa mà không còn am Bạch Vân, quán Trung Tân bên bến Tuyết Giang, trong đó có những dòng thơ ca ngợi Trình Tuyền hầu Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có tài huyền cơ tham tạo hóa (mưu cơ thâm kín can dự cả vào công việc của tạo hóa) hay phiến ngữ toàn tam tính (một lời ngắn gọn mà bảo toàn cho cả ba họ).
Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tùy bút đã viết: “Lý học như Nguyễn Bỉnh Khiêm và Phùng Khắc Khoan đều là tinh anh của non sông đúc lại”.
Phan Huy Chú, danh sĩ thời nhà Nguyễn, trong bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí đã xem Nguyễn Bỉnh Khiêm là “một bậc kỳ tài, hiền danh muôn thuở”.
Nguyên Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười về thăm khu di tích Trạng Trình đã ghi những hàng chữ lưu niệm: “Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ, nhà văn, một thầy giáo, một nhà triết học, một nhà dự báo, một danh nhân văn hóa như cây đại thụ bóng trùm cả một thế kỷ XVI. Tấm lòng yêu nước, thương dân tha thiết, nhân cách cao cả cùng với tri thức uyên bác và tài năng sáng tạo đã tạo nên sự nghiệp, uy tín và ảnh hưởng rộng lớn của ông mà đến nay chúng ta rất đỗi tự hào, trân trọng.”
Giáo sư, Anh hùng lao động Vũ Khiêu có những đánh giá về việc Nguyễn Bỉnh Khiêm đã quyết định đi theo phò tá triều Mạc mà không phải là nhà Lê: “Vì sao nhà trí thức kiệt xuất này, suốt cuộc đời cho đến lúc gần 50 tuổi vẫn nhất định không chịu đi thi, không chịu cộng tác với nhà Lê, không nhận bất cứ công việc gì của nhà Lê để cuối cùng chọn Mạc Đăng Dung như minh chủ của mình?... Tấm lòng của Nguyễn Bỉnh Khiêm và thái độ của ông do chính ông tự tay viết ra và còn để lại đã bác bỏ mọi sự xuyên tạc vô căn cứ về ông. Những lời tâm huyết trong thơ của ông khiến người đời sau phải suy nghĩ vì sao ông lại gắn bó với Mạc Đăng Dung và triều Mạc đến thế.”
GS.TSKH. Vũ Minh Giang (Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội ) cho rằng: “Sự dấn thân muộn màng của một con người tài năng bộc lộ từ khi còn bé chứng tỏ Nguyễn Bỉnh Khiêm không thuộc người lãnh đạm với thời cuộc, mà trái lại ông là người có lý tưởng cao hơn nhiều so với chí hướng thi đỗ làm quan, vinh thân phì gia thường thấy ở phần lớn nho sỹ. Ông chỉ tham dự vào chính trường khi cảm thấy thời cuộc cần đến mình, khi hoàn cảnh chính trị có thể tạo điều kiện cho ông đem tài trí ra giúp đời, phụng sự đất nước”.
Giáo sư Nguyễn Huệ Chi trong bài tham luận “Bước đầu suy nghĩ về văn học Mạc” đã đánh giá về Nguyễn Bỉnh Khiêm: “...Ông là một nhà văn hóa, và riêng ở bình diện văn hóa mà nói thì tầm vóc không thua kém Nguyễn Trãi là mấy, phần nào đấy còn khai phá vào một vài lĩnh vực sâu hơn. Bởi ông chuyên về dịch học. Chính ông xây dựng nền tảng của tư tưởng biện chứng trong Kinh Dịch, góp vào lịch sử tư tưởng Việt Nam một số kiến giải mới mẻ. Là một nhà dịch học nên ông nổi tiếng là bậc tiên tri, nhưng ông cũng lại là một nhà thơ lớn. Ông viết đến một nghìn bài thơ chữ Hán. Đây là con số mà từ thời đại Mạc trở về trước hoàn toàn chưa có...”
Phó Giáo sư Nguyễn Tài Thư trong tác phẩm Nghiên cứu Kinh Dịch (Nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin, 2002) đã có những đúc kết về di sản Lý học (Dịch học) của Trạng Trình: “Chiêm nghiệm những nguyên lý của Chu Dịch, đưa nó vào xử thế mà ông nổi tiếng là người nhìn xa trông rộng. Những sự kiện Nguyễn Bỉnh Khiêm tiên đoán nhà Lê trung hưng, chỉ cho nhà Mạc lên Cao Bằng, khuyên Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Hóa Châu đã được lịch sử chứng minh là tài tình, thì ở đây không có gì là lời nói gặp may, mà là những dự đoán có cơ sở thực tế vững vàng, đáng được nhân dân tôn ông làm nhà tiên tri. Quả thật, học Dịch và hiểu Dịch như ông xưa nay không phải là nhiều... Ông đã vượt được các nhà Nho khác chính là ở chỗ ông học Dịch nhưng không bị lệ thuộc hoàn toàn vào Dịch”.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là danh nhân văn hóa duy nhất trong lịch sử Việt Nam cho tới nay được công nhận là một vị thánh của một tôn giáo chính thức. Ông được suy tôn là Thanh Sơn Đạo sĩ (còn được gọi là Thanh Sơn Chơn nhơn), là một trong ba vị thánh linh thiêng của Đạo Cao Đài. Bức tranh Tam Thánh ký hòa ước được lưu thờ tại Tòa Thánh Tây Ninh có vẽ chân dung của Nguyễn Bỉnh Khiêm bên cạnh Victor Hugo và Tôn Trung Sơn.
sau đây là một bản đáng tin cậy nhất về những lời sấm truyền của Trạng:
1.Vận lành mừng gặp tiết lành
Thấy trong quốc ngữ lập thành nên câu
2. Một câu là một nhiệm màu
Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao
3.Trải vì sao mây che Thái Ất
Thủa cung tay xe nhật phù lên
4. Việt Nam khởi tổ xây nên
Lạc Long ra trị đương quyền một phương
5. Thịnh suy bỉ thới lẽ thường
Một thời lại một nhiễu nhương nên lề
6. Ðến Ðinh Hoàng nối ngôi cửu ngũ
Thấy trong quốc ngữ lập thành nên câu
2. Một câu là một nhiệm màu
Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao
3.Trải vì sao mây che Thái Ất
Thủa cung tay xe nhật phù lên
4. Việt Nam khởi tổ xây nên
Lạc Long ra trị đương quyền một phương
5. Thịnh suy bỉ thới lẽ thường
Một thời lại một nhiễu nhương nên lề
6. Ðến Ðinh Hoàng nối ngôi cửu ngũ
Mở bản đồ rủ áo chấp tay
7. Ngự đao phút chốc đổi thay
Thập bát tử rày quyền đã nổi lên
8. Ðông a âm vị nhi thuyền
Nam phương kỳ mộc bỗng liền lại sinh
9. Chấn cung hiện nhật quang minh
Sóng lay khôn chống trường thành bền cho
10. Ðoài cung vẻ rạng trăng thu
Ra tay mở lấy đế đô vạn toàn
11. Sang cửu thiên ám vầng hồng nhật
Dưới lẫn trên ăn vẩn uống quen
12. Sửa sang muôn việc cầm quyền
Ngồi không ai dể khẳng gìn giúp cho
13. Kìa liệt vương khí hư đồ ủng
Mặc Cường Hầu ong ỏng khắp nơi
7. Ngự đao phút chốc đổi thay
Thập bát tử rày quyền đã nổi lên
8. Ðông a âm vị nhi thuyền
Nam phương kỳ mộc bỗng liền lại sinh
9. Chấn cung hiện nhật quang minh
Sóng lay khôn chống trường thành bền cho
10. Ðoài cung vẻ rạng trăng thu
Ra tay mở lấy đế đô vạn toàn
11. Sang cửu thiên ám vầng hồng nhật
Dưới lẫn trên ăn vẩn uống quen
12. Sửa sang muôn việc cầm quyền
Ngồi không ai dể khẳng gìn giúp cho
13. Kìa liệt vương khí hư đồ ủng
Mặc Cường Hầu ong ỏng khắp nơi
14.Trời sinh ra những kẻ gian
Mặt khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài
15.Áo vàng ấm áp đà hay
Khi sui đấp núi khi say xây thành
16.Lấy đạt điền làm công thiên hạ
Ðược mấy năm đất lở giếng mòn
17.Con yết ạch ạch tranh khôn
Vô già mở hội mộng tôn làm chùa
18. Cơ trời xem đã mê đồ
Ðã đô lại muốn mở đô cho người
19. Ấy lòng trời xuôi lòng bất nhẫn
Suốt vạn dân cừu giận oán than
20. Dưới trên dốc chí lo toan
Những đua bán nước bán quan làm giàu
21. Thống rủ nhau làm mồi phú quí
Mấy trung thần có chí an dân
22. Ðua nhau làm sự bất nhân
Ðã tuần rốn bể lại tuần đầu non
23.Dư đồ chia xẻ càn khôn
Mối giềng man mác khiếp mòn lòng nhau
24.Vội sang giàu giết người lấy của
Sự có chăng mặc nọ ai đôi
25. Việc làm thất chính tơi bời
Minh ra bổng lại thấy thôi bấy giờ
26.Xem tượng trời đã giơ ra trước
Còn hung hăng bạc ngược quá xưa
27.Cuồn phong cả sớm liền trưa
Ðã đờn cửu khúc còn thơ thi đề
28. Ấy Tần Vương ngu mê chẳng biết
Ðể vạn dân dê lại giết dê
29. Luôn năm chật vật đi về
Âm binh ở giữa nào hề biết đâu
30.Thấy nội thành tiếng kêu ong ỏng
Cũng một lòng trời chống khác nào
31.Xem người dường vững chiêm bao
Nào đâu còn muốn ước ao thái bình
32. Một góc thành làm mấy chứng quỷ
Ðua một lòng ích kỷ hại nhân
33.Bốn phương rời rỡ hồng trần
Làng khua mỏ cá làng phân điếm tuần
34.Tiếc là những xuất dân làm bạo
Khua dục loài thỏ cáo tranh nhau
35.Nhân danh trọn hết đâu đâu
Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê
36.Hùm già lạc dấu khôn về
Mèo non chi chí tìm về cố hương
37.Chân dê móng khởi tiêu tường
Nghi nhau ai dễ sửa sang một mình
38.Nội thành ong ỏng hư kinh
Ðầu khỉ tin sứ chèo thành lại sang
39.Bở mồ hôi Bắc giang tái mã
Giửa hai xuân bỗng phá tổ long
40.Quốc trung kinh dụng cáo không
Giữa năm giả lai kiểm hung mùa màng
41.Gà đâu sớm gáy bên tường
Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không
42.Thủy binh cờ phất vầng hồng
Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng
43.Ðứng hiên ngang đố ai biết trước
Ấy Bắc binh sang việc gì chăng ?
44.Ai còn khoe trí khoe năng
Cấm kia bắt nọ tưng bừng đôi nơi
45.Chưa từng thấy đời này sự lạ
Bổng khiến người giá họa cho dân
46.Muốn bình sao chẳng lấy nhân
Muốn yên sao chẳng dục dân ruộng cày
47.Ðã nên si Hoàn Linh đời Hán
Ðúc tiền ra bán tước cho dân
48.Xun xoe những rắp cậy quân
Chẳng ngờ thiên đạo xây dần đã công
49.Máy hoá công nắm tay dễ ngỏ
Lòng báo thù ai dễ đã nguôi
50.Thung thăng tưởng thấy đạo trời
Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra
51.Cát lầm bốn bể can qua
Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về
52.Quân hùng binh nhuệ đầy khe
Kẻ xưng cứu nước kẻ khoe trị đời
53.Bấy giờ càng khốn than ôi
Quỉ ma trật vật biết trời là đâu ?
54.Thương những kẻ ăn rau ăn giới
Gặp nước bung con cái ẩn đâu
55.Báo thù ấy chẳng sai đâu
Tìm non có rẩy chừng sau mới toàn
56.Xin những kẻ hai lòng sự chúa
Thấy đâu hơn thì phụ thửa ân
57.Cho nên phải báo trầm luân
Ai khôn mới được bảo thân đời này
58. Nói cho hay khảm cung rồng dấy
Chí anh hùng xem lấy mới ngoan
59.Chử Rằng lục thất nguyệt gian
Ai mà nghĩ được mới gan anh tài
60.Hễ nhân kiến đã dời đất cũ
Thì phụ nguyên mới trổ binh ra
61.Bốn phương chẳng động can qua
Quần hùng các xứ điều hoà làm tôi
62.Bấy giờ mở rộng qui khôi
Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn
64.Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
Hoàng phúc xưa đã định tây phong
65.Làu làu thế giới sáng trong
Lồ lộ mặt rồng đầu có chử vương
66.Rỏ sinh tài lạ khác thường
Thuấn Nghiêu là chí Cao Quang là tài
67.Xem ý trời có lòng đãi thánh
Dốc sinh hiền điều đỉnh nội mai
68.Chọn đầu thai những vì sao cả
Dùng ở tay phụ tá vương gia
69.Bắc phương chính khí sinh ra
Có ông Bạch sĩ điều hoà hôm mai
70.Song thiên nhật rạng sáng soi
Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường
71.Ðời này thánh kế vị vương
Ðủ no đạo đức văn chương trong mình
72.Uy nghi trạng mạo khác hình
Thác cư một gốc kim tinh phương đoài
73.Cùng nhau khuya sớm dưỡng nuôi
Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân
74.Binh thơ mấy quyển kinh luân
Thiên văn địa lý nhân luân càng mầu
75.Ở đâu đó anh hùng hẳn biết
Xem sắc mây đã biết thành long
76.Thánh nhân cư có thụy cung
Quân thần đã định gìn lòng chớ tham
77.Lại dặn đấng tú nam chí cả
Chớ vội vàng tất tả chạy rong
78.Học cho biết lý kiết hung
Biết phương hướng bội chớ dùng làm chi
79.Hễ trời sinh xuống phải thì
Bất kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông
80.Kìa những kẻ vội lòng phú quí
Xem trong mình một thí đều không
81.Ví dù có gặp ngư ông
Lưới chài đâu sẵn nên công mà hòng
82.Xin khuyên đấng thời trung quân tử
Lòng trung nghi ai nhớ cho tinh
83.Âm dương cơ ngẩu ngô sinh
Thái nhâm thái ất trong mình cho hay
84.Văn thì luyện nguyên bài quyết thắng
Khen Tử Phòng cũng đấng Khổng Minh
85.Võ thông yên thủy thần kinh
Ðược vào trận chiến mới càng biến cơ
86.Chớ vật vờ quen loài ong kiến
Biết ray tay miệng biếng nói không
87.Ngỏ hay gặp hội mây rồng
Công danh sáng chói chép trong vân đài
88.Bấy giờ phỉ sức chí trai
Lọ là cho phải ngược xuôi nhọc mình
89.Nặng lòng thật có vĩ kinh
Cao tay mới gẩm biết tình năm nao
90.Trên trời có mấy vì sao
Ðủ nho biền tướng anh hào đôi nơi
91.Nước Nam thường có thánh tài
Ai khôn xem lấy hôm mai mới tường
92.So mấy lời để tàng kim quĩ
Chờ hậu mai có chí sẽ cho
93.Trước là biết nẽo tôn phò
Sau là cao chí biết lo mặc lòng
94.Xem đoài cung đến thời bất tạo
Thấy vĩ tinh liệu rạo cho mau
95.Nguôi lòng tham tước, tham giàu
Tìm nơi tam hiểm mới hầu bảo thân
96.Trẻ con mang mệnh Tướng quân
Ngỡ oai đã dấy ngỡ nhân đã nhường
97.Ai lấy gương vua U thủa trước
Loạn ru vì tham ngược bất nhân
98.Ðoài phương ong khởi lần lần
Muôn sinh Ba Cốc cầm binh dấy loàn
99.Man mác một đỉnh Hoành Sơn
Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù
100.Ấy là những binh thù Thái Thái
Lòng trời xui ai nấy biết ru ?
101.Phá điền dầu khỉ cuối thu
Tái binh mới động thập thò liền sang
102.Lọ chẳng thường trong năm khôn xiết
Vẽ lại thêm hung kiệt mất mùa
103.Lưu tinh hiện trước đôi thu
Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm
104.Xem thấy nhũng sương săm tuyết lạnh
Loài bất bình tranh mạnh hung hăng
105.Thành câu cá, lửa tưng bừng
Kẻ ngàn Ðông Hải người rừng Bắc Lâm
106.Chiến trường chốn chốn cát lầm
Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông
107.Sang thu chín huyết hồng tứ giả
Noi đàng dê tranh phá đôi nơi
108.Ðua nhau đồ thán quần lê
Bấy giờ thiên hạ không bề tựa nương
109.Kẻ thì phải thủa hung hoang
Kẻ thì binh hỏa chiến trường chết oan
110.Kẻ thì mắc thủa hung tàn
Kẻ thì bận của bổng toan khốn mình
111.Muông vương dựng ổ cắn tranh
Ðiều thì làm chước xuất binh thủ thành
112.Bời bời đua mạnh tranh giành
Ra đâu đánh đấy dem binh sớm ngày
113.Bể thanh cá phải ẩn cây
Ðất bằng nổi sấm cát bay mịt mù
114.Nào ai đã dễ nhìn U
Thủy chiến bộ chiến mặc dù đòi cơn
115.Cây bay, lửa cháy ngút ngàn
Một làng còn mấy chim đàn bay ra
116.Bốn phương cùng có can qua
Làm sao cho biết nơi hào bảo thân
117.Ðoài phương thực có chân nhân
Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người
118.Tìm cho được chốn được nơi
Thái nguyên một giãi lần chơi trú đình
119.Bốn bề núi đá riểu quanh
Một đường tiểu mạch nương mình dấy an
120.Hễ Ðông Nam nhiều phen tàn tạc
Tránh cho xa kẻo mắc đao binh
121.Bắc kinh mới thật đế kinh
Dấu thân chưa dễ dấu danh được nào
122.Chim hồng vỗ cánh bay cao
Tìm cho được chốn mới vào thần kinh
123.Ai dễ cứu con thơ sa giếng
Ðưa một lòng tranh tiếng dục nhau
124.Vạn dân chịu thủa u sầu
Kể dư đôi ngủ mới hầu khoan cho
125.Cấy cày thu đãi thời mùa
Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai
126.Nhân ra cận duyệt viễn lai
Chẳng phiền binh nhọc chẳng nài lương thêm
127.Xem tượng trời biết đường đời trị
Gẫm về sau họ Lý xưa nên
128.Giòng nhà để lấy dấu truyền
Gẫm xem bốn báu còn in đời đời
129.Thần qui cơ nổ ở trời
Ðể làm thần khí thủa nơi trị trường
130.Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
Sông Bảo Giang thiên định ai hay
131.Lục thất cho biết ngày dài
Phụ nguyên ấy thực ở đầy tào khê
132.Có thầy nhân thập đi về
Tả phụ hửu trì cây cỏ làm binh
133.Giốc hết sức sửa sang vương nghiệp
Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời
134.Ra tay điều chỉnh hộ may
Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân
135.Lọ là phải nhọc kéo quân
Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về
136.Năm giáp tý vẽ khuê đã rạng
Lộ Ngũ tinh trinh tượng thái hanh
137.Ân trên vũ khí vân hành
Kẻ thơ ký tuý kẻ canh xuân đài
138.Bản đồ chảng sót cho ai
Nghìn năm lại lấy hội nơi vẹn toàn
139.Vững nền vương cha truyền con nối
Dõi muôn đời một mối xa thư
140.Bể kình tâm lặng bằng tờ
Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân
141.Âu vàng khỏe đặt vững chân
Càng bền thế nước vạn xuân lâu dài
142.Vừa năm nhâm tý xuân đầu
Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời
143.Quyển vàng mở thấy sấm trời
Từ Ðinh đổi đời chí lục thất gian
144.Một thời có một tôi ngoan
Giúp trong việc nước gặp an thái bình
145.Luận chung một tập kim thời
Tướng quyền tử sĩ nam nhi học đòi
146.Trượng phu có chí thời coi
Những câu nhiệm nhặt đáng đôi nhành vàng
147.Tài nầy nên đấng vẻ vang
Biết chừng đời trị biết đường đời suy
148.Kể từ nhân đoản mà đi
Số chưa gặp thì biết hoà chép ra
149.Tiếc thay hiền sĩ bao già
Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công
150.Thử cho tay giúp ra dùng
Tài này so cùng tài trước xem sao
151.Trên trời kể chín tầng cao
Tay nghe bằng một ti hào biết hay
152.Hiềm vì sinh phải thời này
Rấp thù mở nước tiếc thay chưng đời
153.Hợp đà thay thánh nghìn tài
Giáng sinh rủi kiếp quỉ ma nhà trời
154.Nói ra thì lậu sự đời
Trái tai phải lụy tài trai khôn luần
155.Nói ra ám chúa bội quân
Ðương thời đời trị xoay vần được đâu
156.Chờ cho nhân đoản hết sau
Ðến chừng đời ấy thấy âu nhiễu nàn
157.Trời xui những kẻ ắt gian
Kiếp độc đạo thiết làm loàn có hay
158.Vua nào tôi ấy đã bày
Trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn
159.Ðua nhau bội bạn nghịch vi
Ích gia phi kỷ dân thì khốn thay
160.Tiếc tài gẩm được thời hay
Ðã sao như vậy ra tay sẽ dùng
161.Tài trai có chí anh hùng
Muốn làm tướng súy lập công xưng đời
162.Khá xem nhiệm nhặt tội trời
Cơ mưu nhiệm nhặt mấy trai anh hùng
163.Ði tìm cho đến đế cung
Rấp phù xuất lực đế cung được toàn
164.Bảo nhau cương kỷ cho tường
Bốn phương cũng được cho yên trong ngoài
165.Chờ cho động đất chuyển trời
Bấy giờ thánh sẽ nên tay anh hùng
166.Còn bên thì náu chưa xong
Nhân lực cướp lấy thiên công những là
167.Ðời ấy những quỉ cùng ma
Chảng còn ở thật người ta đâu là
168.Trời cao đất rộng bao xa
Làm sao cho biết cửa nhà đế vương
169.Dù trai ai chửa biết tường
Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này
170.Ý ra lục thất gian nay
Thời vận đã định thời nầy hưng vương
171.Trí xem nhiệm nhặt cho tường
Bảo Giang thánh xuất trung ương thuở nầy
172.Vua ngự thạch bàn xa thay
Ðại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng
173.Gà kêu vượn hót vang lừng
Ðường đi thỏ thẻ dặm chưn khôn dò
174.Nhân dân vắng mạt bằng tờ
Sơn lâm vào ở đổ nhờ khôn thay
175.Vua còn cuốc nguyệt cày mây
Phong điều vũ thuận thú rày an dân
176.Phong đăng hoà cốc chứa chang
Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây
177.Chính cung phương khảm vần mây
Thực thay thiên tử là nay trị đời
178.Anh hùng trí lượng thời coi
Công danh chẳng ngại tìm đòi ra đi
179.Tìm lên đến thạch bàn khê
Có đất sinh thánh bên kia cuối làng
180.Nhìn đi nhìn lại cho tường
Dường như chửa có sinh vương đâu là
181.Chảng tìm thì đến bình gia
Thánh chưa sinh thánh báo ca địa bình
182.Nhìn xem phong cảnh cũng xinh
Tả long triều lại có thành đợt vây
183.Hửu hổ uấn khúc giang này
Minh Ðường thất diệu trước bày mặt tai
184.Ở xa thấy một con voi
Cúi đầu quen bụi trông vời hồ sâu
185.Ấy điềm thiên tử về chầu
Tượng trưng đế thánh tô lâu trị đời
186.Song thiên nhật nguyệt sáng soi
Sinh đặng chúa ấy là ngôi chẳng cầu
187.Ðến đời thịnh vượng còn lâu
Ðành đến tam hợp chia nhau sẽ làm
188.Khuyên cho Ðông Bắc Tây Nam
Muốn làm tướng súy thì xem trông này
Mặt khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài
15.Áo vàng ấm áp đà hay
Khi sui đấp núi khi say xây thành
16.Lấy đạt điền làm công thiên hạ
Ðược mấy năm đất lở giếng mòn
17.Con yết ạch ạch tranh khôn
Vô già mở hội mộng tôn làm chùa
18. Cơ trời xem đã mê đồ
Ðã đô lại muốn mở đô cho người
19. Ấy lòng trời xuôi lòng bất nhẫn
Suốt vạn dân cừu giận oán than
20. Dưới trên dốc chí lo toan
Những đua bán nước bán quan làm giàu
21. Thống rủ nhau làm mồi phú quí
Mấy trung thần có chí an dân
22. Ðua nhau làm sự bất nhân
Ðã tuần rốn bể lại tuần đầu non
23.Dư đồ chia xẻ càn khôn
Mối giềng man mác khiếp mòn lòng nhau
24.Vội sang giàu giết người lấy của
Sự có chăng mặc nọ ai đôi
25. Việc làm thất chính tơi bời
Minh ra bổng lại thấy thôi bấy giờ
26.Xem tượng trời đã giơ ra trước
Còn hung hăng bạc ngược quá xưa
27.Cuồn phong cả sớm liền trưa
Ðã đờn cửu khúc còn thơ thi đề
28. Ấy Tần Vương ngu mê chẳng biết
Ðể vạn dân dê lại giết dê
29. Luôn năm chật vật đi về
Âm binh ở giữa nào hề biết đâu
30.Thấy nội thành tiếng kêu ong ỏng
Cũng một lòng trời chống khác nào
31.Xem người dường vững chiêm bao
Nào đâu còn muốn ước ao thái bình
32. Một góc thành làm mấy chứng quỷ
Ðua một lòng ích kỷ hại nhân
33.Bốn phương rời rỡ hồng trần
Làng khua mỏ cá làng phân điếm tuần
34.Tiếc là những xuất dân làm bạo
Khua dục loài thỏ cáo tranh nhau
35.Nhân danh trọn hết đâu đâu
Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê
36.Hùm già lạc dấu khôn về
Mèo non chi chí tìm về cố hương
37.Chân dê móng khởi tiêu tường
Nghi nhau ai dễ sửa sang một mình
38.Nội thành ong ỏng hư kinh
Ðầu khỉ tin sứ chèo thành lại sang
39.Bở mồ hôi Bắc giang tái mã
Giửa hai xuân bỗng phá tổ long
40.Quốc trung kinh dụng cáo không
Giữa năm giả lai kiểm hung mùa màng
41.Gà đâu sớm gáy bên tường
Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không
42.Thủy binh cờ phất vầng hồng
Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng
43.Ðứng hiên ngang đố ai biết trước
Ấy Bắc binh sang việc gì chăng ?
44.Ai còn khoe trí khoe năng
Cấm kia bắt nọ tưng bừng đôi nơi
45.Chưa từng thấy đời này sự lạ
Bổng khiến người giá họa cho dân
46.Muốn bình sao chẳng lấy nhân
Muốn yên sao chẳng dục dân ruộng cày
47.Ðã nên si Hoàn Linh đời Hán
Ðúc tiền ra bán tước cho dân
48.Xun xoe những rắp cậy quân
Chẳng ngờ thiên đạo xây dần đã công
49.Máy hoá công nắm tay dễ ngỏ
Lòng báo thù ai dễ đã nguôi
50.Thung thăng tưởng thấy đạo trời
Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra
51.Cát lầm bốn bể can qua
Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về
52.Quân hùng binh nhuệ đầy khe
Kẻ xưng cứu nước kẻ khoe trị đời
53.Bấy giờ càng khốn than ôi
Quỉ ma trật vật biết trời là đâu ?
54.Thương những kẻ ăn rau ăn giới
Gặp nước bung con cái ẩn đâu
55.Báo thù ấy chẳng sai đâu
Tìm non có rẩy chừng sau mới toàn
56.Xin những kẻ hai lòng sự chúa
Thấy đâu hơn thì phụ thửa ân
57.Cho nên phải báo trầm luân
Ai khôn mới được bảo thân đời này
58. Nói cho hay khảm cung rồng dấy
Chí anh hùng xem lấy mới ngoan
59.Chử Rằng lục thất nguyệt gian
Ai mà nghĩ được mới gan anh tài
60.Hễ nhân kiến đã dời đất cũ
Thì phụ nguyên mới trổ binh ra
61.Bốn phương chẳng động can qua
Quần hùng các xứ điều hoà làm tôi
62.Bấy giờ mở rộng qui khôi
Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn
64.Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
Hoàng phúc xưa đã định tây phong
65.Làu làu thế giới sáng trong
Lồ lộ mặt rồng đầu có chử vương
66.Rỏ sinh tài lạ khác thường
Thuấn Nghiêu là chí Cao Quang là tài
67.Xem ý trời có lòng đãi thánh
Dốc sinh hiền điều đỉnh nội mai
68.Chọn đầu thai những vì sao cả
Dùng ở tay phụ tá vương gia
69.Bắc phương chính khí sinh ra
Có ông Bạch sĩ điều hoà hôm mai
70.Song thiên nhật rạng sáng soi
Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường
71.Ðời này thánh kế vị vương
Ðủ no đạo đức văn chương trong mình
72.Uy nghi trạng mạo khác hình
Thác cư một gốc kim tinh phương đoài
73.Cùng nhau khuya sớm dưỡng nuôi
Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân
74.Binh thơ mấy quyển kinh luân
Thiên văn địa lý nhân luân càng mầu
75.Ở đâu đó anh hùng hẳn biết
Xem sắc mây đã biết thành long
76.Thánh nhân cư có thụy cung
Quân thần đã định gìn lòng chớ tham
77.Lại dặn đấng tú nam chí cả
Chớ vội vàng tất tả chạy rong
78.Học cho biết lý kiết hung
Biết phương hướng bội chớ dùng làm chi
79.Hễ trời sinh xuống phải thì
Bất kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông
80.Kìa những kẻ vội lòng phú quí
Xem trong mình một thí đều không
81.Ví dù có gặp ngư ông
Lưới chài đâu sẵn nên công mà hòng
82.Xin khuyên đấng thời trung quân tử
Lòng trung nghi ai nhớ cho tinh
83.Âm dương cơ ngẩu ngô sinh
Thái nhâm thái ất trong mình cho hay
84.Văn thì luyện nguyên bài quyết thắng
Khen Tử Phòng cũng đấng Khổng Minh
85.Võ thông yên thủy thần kinh
Ðược vào trận chiến mới càng biến cơ
86.Chớ vật vờ quen loài ong kiến
Biết ray tay miệng biếng nói không
87.Ngỏ hay gặp hội mây rồng
Công danh sáng chói chép trong vân đài
88.Bấy giờ phỉ sức chí trai
Lọ là cho phải ngược xuôi nhọc mình
89.Nặng lòng thật có vĩ kinh
Cao tay mới gẩm biết tình năm nao
90.Trên trời có mấy vì sao
Ðủ nho biền tướng anh hào đôi nơi
91.Nước Nam thường có thánh tài
Ai khôn xem lấy hôm mai mới tường
92.So mấy lời để tàng kim quĩ
Chờ hậu mai có chí sẽ cho
93.Trước là biết nẽo tôn phò
Sau là cao chí biết lo mặc lòng
94.Xem đoài cung đến thời bất tạo
Thấy vĩ tinh liệu rạo cho mau
95.Nguôi lòng tham tước, tham giàu
Tìm nơi tam hiểm mới hầu bảo thân
96.Trẻ con mang mệnh Tướng quân
Ngỡ oai đã dấy ngỡ nhân đã nhường
97.Ai lấy gương vua U thủa trước
Loạn ru vì tham ngược bất nhân
98.Ðoài phương ong khởi lần lần
Muôn sinh Ba Cốc cầm binh dấy loàn
99.Man mác một đỉnh Hoành Sơn
Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù
100.Ấy là những binh thù Thái Thái
Lòng trời xui ai nấy biết ru ?
101.Phá điền dầu khỉ cuối thu
Tái binh mới động thập thò liền sang
102.Lọ chẳng thường trong năm khôn xiết
Vẽ lại thêm hung kiệt mất mùa
103.Lưu tinh hiện trước đôi thu
Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm
104.Xem thấy nhũng sương săm tuyết lạnh
Loài bất bình tranh mạnh hung hăng
105.Thành câu cá, lửa tưng bừng
Kẻ ngàn Ðông Hải người rừng Bắc Lâm
106.Chiến trường chốn chốn cát lầm
Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông
107.Sang thu chín huyết hồng tứ giả
Noi đàng dê tranh phá đôi nơi
108.Ðua nhau đồ thán quần lê
Bấy giờ thiên hạ không bề tựa nương
109.Kẻ thì phải thủa hung hoang
Kẻ thì binh hỏa chiến trường chết oan
110.Kẻ thì mắc thủa hung tàn
Kẻ thì bận của bổng toan khốn mình
111.Muông vương dựng ổ cắn tranh
Ðiều thì làm chước xuất binh thủ thành
112.Bời bời đua mạnh tranh giành
Ra đâu đánh đấy dem binh sớm ngày
113.Bể thanh cá phải ẩn cây
Ðất bằng nổi sấm cát bay mịt mù
114.Nào ai đã dễ nhìn U
Thủy chiến bộ chiến mặc dù đòi cơn
115.Cây bay, lửa cháy ngút ngàn
Một làng còn mấy chim đàn bay ra
116.Bốn phương cùng có can qua
Làm sao cho biết nơi hào bảo thân
117.Ðoài phương thực có chân nhân
Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người
118.Tìm cho được chốn được nơi
Thái nguyên một giãi lần chơi trú đình
119.Bốn bề núi đá riểu quanh
Một đường tiểu mạch nương mình dấy an
120.Hễ Ðông Nam nhiều phen tàn tạc
Tránh cho xa kẻo mắc đao binh
121.Bắc kinh mới thật đế kinh
Dấu thân chưa dễ dấu danh được nào
122.Chim hồng vỗ cánh bay cao
Tìm cho được chốn mới vào thần kinh
123.Ai dễ cứu con thơ sa giếng
Ðưa một lòng tranh tiếng dục nhau
124.Vạn dân chịu thủa u sầu
Kể dư đôi ngủ mới hầu khoan cho
125.Cấy cày thu đãi thời mùa
Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai
126.Nhân ra cận duyệt viễn lai
Chẳng phiền binh nhọc chẳng nài lương thêm
127.Xem tượng trời biết đường đời trị
Gẫm về sau họ Lý xưa nên
128.Giòng nhà để lấy dấu truyền
Gẫm xem bốn báu còn in đời đời
129.Thần qui cơ nổ ở trời
Ðể làm thần khí thủa nơi trị trường
130.Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
Sông Bảo Giang thiên định ai hay
131.Lục thất cho biết ngày dài
Phụ nguyên ấy thực ở đầy tào khê
132.Có thầy nhân thập đi về
Tả phụ hửu trì cây cỏ làm binh
133.Giốc hết sức sửa sang vương nghiệp
Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời
134.Ra tay điều chỉnh hộ may
Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân
135.Lọ là phải nhọc kéo quân
Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về
136.Năm giáp tý vẽ khuê đã rạng
Lộ Ngũ tinh trinh tượng thái hanh
137.Ân trên vũ khí vân hành
Kẻ thơ ký tuý kẻ canh xuân đài
138.Bản đồ chảng sót cho ai
Nghìn năm lại lấy hội nơi vẹn toàn
139.Vững nền vương cha truyền con nối
Dõi muôn đời một mối xa thư
140.Bể kình tâm lặng bằng tờ
Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân
141.Âu vàng khỏe đặt vững chân
Càng bền thế nước vạn xuân lâu dài
142.Vừa năm nhâm tý xuân đầu
Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời
143.Quyển vàng mở thấy sấm trời
Từ Ðinh đổi đời chí lục thất gian
144.Một thời có một tôi ngoan
Giúp trong việc nước gặp an thái bình
145.Luận chung một tập kim thời
Tướng quyền tử sĩ nam nhi học đòi
146.Trượng phu có chí thời coi
Những câu nhiệm nhặt đáng đôi nhành vàng
147.Tài nầy nên đấng vẻ vang
Biết chừng đời trị biết đường đời suy
148.Kể từ nhân đoản mà đi
Số chưa gặp thì biết hoà chép ra
149.Tiếc thay hiền sĩ bao già
Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công
150.Thử cho tay giúp ra dùng
Tài này so cùng tài trước xem sao
151.Trên trời kể chín tầng cao
Tay nghe bằng một ti hào biết hay
152.Hiềm vì sinh phải thời này
Rấp thù mở nước tiếc thay chưng đời
153.Hợp đà thay thánh nghìn tài
Giáng sinh rủi kiếp quỉ ma nhà trời
154.Nói ra thì lậu sự đời
Trái tai phải lụy tài trai khôn luần
155.Nói ra ám chúa bội quân
Ðương thời đời trị xoay vần được đâu
156.Chờ cho nhân đoản hết sau
Ðến chừng đời ấy thấy âu nhiễu nàn
157.Trời xui những kẻ ắt gian
Kiếp độc đạo thiết làm loàn có hay
158.Vua nào tôi ấy đã bày
Trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn
159.Ðua nhau bội bạn nghịch vi
Ích gia phi kỷ dân thì khốn thay
160.Tiếc tài gẩm được thời hay
Ðã sao như vậy ra tay sẽ dùng
161.Tài trai có chí anh hùng
Muốn làm tướng súy lập công xưng đời
162.Khá xem nhiệm nhặt tội trời
Cơ mưu nhiệm nhặt mấy trai anh hùng
163.Ði tìm cho đến đế cung
Rấp phù xuất lực đế cung được toàn
164.Bảo nhau cương kỷ cho tường
Bốn phương cũng được cho yên trong ngoài
165.Chờ cho động đất chuyển trời
Bấy giờ thánh sẽ nên tay anh hùng
166.Còn bên thì náu chưa xong
Nhân lực cướp lấy thiên công những là
167.Ðời ấy những quỉ cùng ma
Chảng còn ở thật người ta đâu là
168.Trời cao đất rộng bao xa
Làm sao cho biết cửa nhà đế vương
169.Dù trai ai chửa biết tường
Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này
170.Ý ra lục thất gian nay
Thời vận đã định thời nầy hưng vương
171.Trí xem nhiệm nhặt cho tường
Bảo Giang thánh xuất trung ương thuở nầy
172.Vua ngự thạch bàn xa thay
Ðại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng
173.Gà kêu vượn hót vang lừng
Ðường đi thỏ thẻ dặm chưn khôn dò
174.Nhân dân vắng mạt bằng tờ
Sơn lâm vào ở đổ nhờ khôn thay
175.Vua còn cuốc nguyệt cày mây
Phong điều vũ thuận thú rày an dân
176.Phong đăng hoà cốc chứa chang
Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây
177.Chính cung phương khảm vần mây
Thực thay thiên tử là nay trị đời
178.Anh hùng trí lượng thời coi
Công danh chẳng ngại tìm đòi ra đi
179.Tìm lên đến thạch bàn khê
Có đất sinh thánh bên kia cuối làng
180.Nhìn đi nhìn lại cho tường
Dường như chửa có sinh vương đâu là
181.Chảng tìm thì đến bình gia
Thánh chưa sinh thánh báo ca địa bình
182.Nhìn xem phong cảnh cũng xinh
Tả long triều lại có thành đợt vây
183.Hửu hổ uấn khúc giang này
Minh Ðường thất diệu trước bày mặt tai
184.Ở xa thấy một con voi
Cúi đầu quen bụi trông vời hồ sâu
185.Ấy điềm thiên tử về chầu
Tượng trưng đế thánh tô lâu trị đời
186.Song thiên nhật nguyệt sáng soi
Sinh đặng chúa ấy là ngôi chẳng cầu
187.Ðến đời thịnh vượng còn lâu
Ðành đến tam hợp chia nhau sẽ làm
188.Khuyên cho Ðông Bắc Tây Nam
Muốn làm tướng súy thì xem trông này
189.Thiên sinh thiên tử ư hỏa thôn
Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn
190.Tiền sinh cha mẹ đà cách trở
Hậu sinh thiên tử Bảo Giang môn
191.Kìa cơn gió thổi lá rung cây
Rung Bắc sang Nam Ðông tới Tây
192.Tan tác Kiến kiều An đất nước
Xác xơ Cổ thụ sạch Am mây
193.Sơn Lâm nổi sóng mù Thao cát
Hưng địa tràng giang Hóa nước đầy 1
94.Một ngựa một Yên ai sùng Bái
Cha con nhà Vĩnh Bảo cho hay
195.Trẻ mừng búng tít con quay
Vù vù chong chóng gió bay trên đài
196.Nhà cha cửa đóng then cài
Ầm ầm sấm động hỏi người đông lân
197.Tiếc tám lạng thương nửa cân
Biết rằng ai có du phần như ai
198.Bắt tay nằm nghỉ dông dài
Thương người có một lo hai phận mình
199.Canh niên tân phá
Tuất Hợi phục sinh
Nhị Ngũ dư bình
200.Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh
Can qua tứ xứ loạn đao binh
201.Mã đề dương cước anh hùng tận
Thân dậu niên lai kiến thái bình
202.Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
Có một đàn xà đánh lộn nhau
203.Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng
Lợn kia làm quái phải sai đầu
204.Chuột nọ lăm le mong cản tổ
Ngựa kia đủng đỉnh bước về tàu
205.Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
Tìm về quê củ bắt ngựa tàu
206.Cửu cửu kiền khôn dĩ định
Thanh minh thời tiết hoa tàn
207.Trực đáo dương đầu mã vĩ
Hồ binh bát vạn nhập trường an
208.Bảo Giang thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành
209.Lê dân bảo bảo noản
Tứ hải lạc âu ca
210.Dục đức thánh nhân hương
Qua kiều cư Bắc phương
211.Danh vi Nguyễn gia tử
Kim tịch sinh ngưu lang
212.Thượng đại nhân bất nhân
Thánh ất dĩ vong ân
Bạch hổ kim đai ấn
Thất thập cổ lai xuân
213.Bắc hữu kim thành tráng
Nam tạc ngọc bích thành
Hỏa thôn đa khuyển phệ
Mục giả dục nhân canh
214.Phú quí hồng trần mộng
Bần cùng bạch phát sinh
215.Anh hùng vương kiếm kích
Manh cổ đổ Thái Bình
216.Nam Việt hửu Ngưu tinh
Quá thất thân thủy sinh
217.Ðiạ giới sĩ vị bạch
Thủy trầm nhi bắc kinh
218.Kỷ mã xu dương tẩu
Phù kê thăng đại minh
219.Trư thử giai phong khởi
Thìn mão xuất thái bình
220.Phân phân tùng Bắc khởi
Nhiểu nhiểu xuất Ðông chinh
221.Bảo sơn thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành
222.Thủy trung tàng bảo cái
Hứa cập thánh nhân hương
223.Mộc hạ châm châm khẩu
Danh thế xuất nan lương
224.Danh vi Nguyễn gia tử
Tinh bản tại ngưu lang
225.Mại dử lê viện dưỡng
Khởi nguyệt bộ đại giang
226.Hoặc kiều tam lộng ngạn
Hoặc ngụ kim lăng cương
227.Thiên dử thần thực thụy
Thụy trình ngũ sắc quang
228.Kim kê khai lựu điệp
Hoàng cái xuất quí phương
229.Nhân nghĩa thùy vi địch
Ðạo đức thực dữ đương
230.Tộ truyền nhị thập ngủ
Vận khải ngủ viên trường
231.Vận đáo dương hầu ách
Chấn đoài cương bất trường
232.Quần gian đạo danh tự
Bách tính khổ tai ương
233.Can qua tranh đấu khởi
Phạm địch tánh hung hoang
234.Ma vương sát đại quỉ
Hoàng thiên tru ma vương
235.Kiền khôn phú tai vô lương
Ðào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng
236.Cơ nhị ngủ thư hùng vị quyết
Ðảo Hoàn Sơn tam liệt ngũ phân
237.Ta hồ vô phụ vô quân
Ðào viên tán lạc ngô dân thủ thành
238.Ðoài phương phước điạ giáng linh
Cửu trùng thụy ứng long thành ngũ vân
239.Phá điền thiên tử giáng trần
Dũng sĩ nhược hải mưu thần như lâm
240.Trần công nai thị phúc tâm
Giang hồ tử sĩ Đào Tiềm xuất du
241.Tướng thần hệ xuất y chu
Thứ kỵ phục kiến Ðường ngu thi hành
242.Hiệu xưng thiên hạ Thái Bình
Ðông Tây vô sự Nam thành quốc gia .
Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn
190.Tiền sinh cha mẹ đà cách trở
Hậu sinh thiên tử Bảo Giang môn
191.Kìa cơn gió thổi lá rung cây
Rung Bắc sang Nam Ðông tới Tây
192.Tan tác Kiến kiều An đất nước
Xác xơ Cổ thụ sạch Am mây
193.Sơn Lâm nổi sóng mù Thao cát
Hưng địa tràng giang Hóa nước đầy 1
94.Một ngựa một Yên ai sùng Bái
Cha con nhà Vĩnh Bảo cho hay
195.Trẻ mừng búng tít con quay
Vù vù chong chóng gió bay trên đài
196.Nhà cha cửa đóng then cài
Ầm ầm sấm động hỏi người đông lân
197.Tiếc tám lạng thương nửa cân
Biết rằng ai có du phần như ai
198.Bắt tay nằm nghỉ dông dài
Thương người có một lo hai phận mình
199.Canh niên tân phá
Tuất Hợi phục sinh
Nhị Ngũ dư bình
200.Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh
Can qua tứ xứ loạn đao binh
201.Mã đề dương cước anh hùng tận
Thân dậu niên lai kiến thái bình
202.Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
Có một đàn xà đánh lộn nhau
203.Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng
Lợn kia làm quái phải sai đầu
204.Chuột nọ lăm le mong cản tổ
Ngựa kia đủng đỉnh bước về tàu
205.Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
Tìm về quê củ bắt ngựa tàu
206.Cửu cửu kiền khôn dĩ định
Thanh minh thời tiết hoa tàn
207.Trực đáo dương đầu mã vĩ
Hồ binh bát vạn nhập trường an
208.Bảo Giang thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành
209.Lê dân bảo bảo noản
Tứ hải lạc âu ca
210.Dục đức thánh nhân hương
Qua kiều cư Bắc phương
211.Danh vi Nguyễn gia tử
Kim tịch sinh ngưu lang
212.Thượng đại nhân bất nhân
Thánh ất dĩ vong ân
Bạch hổ kim đai ấn
Thất thập cổ lai xuân
213.Bắc hữu kim thành tráng
Nam tạc ngọc bích thành
Hỏa thôn đa khuyển phệ
Mục giả dục nhân canh
214.Phú quí hồng trần mộng
Bần cùng bạch phát sinh
215.Anh hùng vương kiếm kích
Manh cổ đổ Thái Bình
216.Nam Việt hửu Ngưu tinh
Quá thất thân thủy sinh
217.Ðiạ giới sĩ vị bạch
Thủy trầm nhi bắc kinh
218.Kỷ mã xu dương tẩu
Phù kê thăng đại minh
219.Trư thử giai phong khởi
Thìn mão xuất thái bình
220.Phân phân tùng Bắc khởi
Nhiểu nhiểu xuất Ðông chinh
221.Bảo sơn thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành
222.Thủy trung tàng bảo cái
Hứa cập thánh nhân hương
223.Mộc hạ châm châm khẩu
Danh thế xuất nan lương
224.Danh vi Nguyễn gia tử
Tinh bản tại ngưu lang
225.Mại dử lê viện dưỡng
Khởi nguyệt bộ đại giang
226.Hoặc kiều tam lộng ngạn
Hoặc ngụ kim lăng cương
227.Thiên dử thần thực thụy
Thụy trình ngũ sắc quang
228.Kim kê khai lựu điệp
Hoàng cái xuất quí phương
229.Nhân nghĩa thùy vi địch
Ðạo đức thực dữ đương
230.Tộ truyền nhị thập ngủ
Vận khải ngủ viên trường
231.Vận đáo dương hầu ách
Chấn đoài cương bất trường
232.Quần gian đạo danh tự
Bách tính khổ tai ương
233.Can qua tranh đấu khởi
Phạm địch tánh hung hoang
234.Ma vương sát đại quỉ
Hoàng thiên tru ma vương
235.Kiền khôn phú tai vô lương
Ðào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng
236.Cơ nhị ngủ thư hùng vị quyết
Ðảo Hoàn Sơn tam liệt ngũ phân
237.Ta hồ vô phụ vô quân
Ðào viên tán lạc ngô dân thủ thành
238.Ðoài phương phước điạ giáng linh
Cửu trùng thụy ứng long thành ngũ vân
239.Phá điền thiên tử giáng trần
Dũng sĩ nhược hải mưu thần như lâm
240.Trần công nai thị phúc tâm
Giang hồ tử sĩ Đào Tiềm xuất du
241.Tướng thần hệ xuất y chu
Thứ kỵ phục kiến Ðường ngu thi hành
242.Hiệu xưng thiên hạ Thái Bình
Ðông Tây vô sự Nam thành quốc gia .
--- Nguyễn Bỉnh Khiêm ---
Ví dụ như khi xảy ra sự kiện tấn công khủng bố vào tòa tháp đôi WTC ngày 11-9-2001 tại New York, Mỹ, trên Internet nhan nhản bài thơ được cho là của Nostradamus :
“Tại thành phố York sẽ có sự sụp đổ lớn
Hai anh em sinh đôi bị xé nát do hỗn loạn
Khi thành trì đổ vỡ người lãnh đạo tối cao sẽ thất bại
Cuộc chiến lớn thứ ba sẽ bắt đầu khi thành phố bùng cháy”. Những lời tiên tri của Nostradamus thường rất khó hiểu, hoặc có thể diễn giải theo nhiều nghĩa. Ngoài việc ông thường kết hợp nhiều ngôn ngữ, chơi ngữ và nói bóng gió, còn có một lý do khác nữa : ông nhìn thấu suốt sự phát triển của nhân loại đến năm 7.000. Ông khó có thể nói về các sự kiện khoa học kỹ thuật của thế kỷ 20 và 21 khi dùng tiếng Pháp của thế kỷ 16 vì... bí từ.
Một số lời tiên tri được diễn giải chính xác và dễ hiểu :Cái chết của vua Henry II :
Sư tử con sẽ vượt qua sư tử già
Trong cuộc chiến chỉ có một trận đánh
Nó sẽ đâm thủng mắt từ trong lồng vàng
Hai vết thương và một cái chết thảm thương (Quyển Thế kỷ 1, câu 35)
Tháng 6-1559, Henrry II phớt lờ những cảnh báo Nostradamus đưa cho ông, quyết định tham gia cuộc đấu thương với Bá tước Montgomery. Hai đối thủ cùng đeo chiếc khiên khắc nổi hình sư tử và Montgomery trẻ hơn Henry 6 tuổi. Theo đúng quy định, cuộc đấu đó chỉ diễn ra một trận duy nhất. Montgomery lỡ đà, chậm hạ chiếc thương xuống, khiến nó đâm vào miếng che mắt mạ vàng của nhà vua. Ngoài vết thương nhỏ ở mặt và cổ, Henry bị hai vết thương rất nặng : ông bị mù một mắt và bị chiếc khiên xiên vào thái dương. Henrry II từ trần sau 10 ngày nằm trên giường bệnh.
Hỏa hoạn ở London năm 1666 : Nostradamus viết :
Máu của thần công lý sẽ bao phủ London
Thành phố sẽ cháy vào năm 66
Vị phu nhân mất địa vị tối cao
Và nhiều nơi bị hủy hoại (Quyển Thế kỷ 2, câu 51) Một vụ hỏa hoạn lớn đã xảy ra tại thủ đô London của Anh năm 1966. Đây là một trong những lời tiên tri hiếm hoi của Nostradamus có ghi rõ năm. Ngay cả những người hoài nghi nhất cũng phải thừa nhận tính chính xác của lời tiên đoán này. Vụ hỏa hoạn đã thiêu rụi 3/4 London.
Dự báo về thất bại của Napoleon ở nước Nga
Một đội quân lớn sẽ tràn vào nước Nga
Những người bị xâm lược sẽ phá hủy một thành phố
Quân chủ lực sẽ phản công
Những kẻ chiến bại sẽ chết trên miền đất trắng.
Những câu thơ này được hiện thực hóa trong trận chiến lịch sử : quân dân Nga thực hiện chính sách “tiêu thổ kháng chiến”, sau đó đạo quân của tướng Kutuzov phản công. Quân đội của Napoleon bị truy sát trên đường rút chạy và chết gần hết trên tuyết trắng của nước Nga.
Nostradamus còn đưa ra dự báo về số phận của Napoleon
Hoàng đế vĩ đại sẽ khởi đầu với một vị trí thấp kém
Và nhanh chóng trở nên lớn mạnh
Nơi nhỏ hẹp sẽ trở thành trung tâm
Khi ông giành được quyền lực tối cao.
Ông hoàng chiến bại bị lưu đày ở Elba
Sẽ trở về Marseille qua vịnh Genoa
Nhưng không vượt qua được các thế lực ngoại bang
Tuy thoát chết nhưng vẫn phải đổ máu.
Napoleon bị lưu đày tại đảo Elba nhưng trốn ra sau 100 ngày giam cầm. Sau khi thất bại trong trận Waterloo, ông bị tước mọi quyền lợi và lưu vong tại đảo St. Helena cho tới khi qua dời.
3.VANGA CỦA BUNGARI:
Hồi sinh ra từ cát bụi
Vanga sinh ngày 31/1/1911, mất ngày 11/8/1996. Bà sống ẩn dật cả đời ở vùng hẻo lánh Kozhuth thuộc Petrich, Bungary. Vanga mất thị lực năm 12 tuổi sau khi bị cuốn đi bởi một cơn lốc lớn. Người ta tìm thấy cô gái nhỏ vẫn còn thoi thóp hơi thở nằm vùi lấp giữa bụi và đá, hai hốc mắt chứa đầy cát. Vanga làm bạn với bóng tối từ đó. Lời tiên tri đầu tiên của Vanga được ghi nhận là vào năm bà 16 tuổi. Bà giúp cha mình tìm lại bầy cừu bị mất trộm bằng cách mô tả chính xác về cái sân nơi bọn trộm cất giấu đàn gia súc. Tuy nhiên, khả năng tiên tri của Vanga chỉ thực sự đạt đến độ chín năm 30 tuổi. Nhiều người tìm đến bà để xin những lời tiên tri. Trong đó có cả “kẻ hủy diệt” Adolf Hitler. Hitler từng ghé thăm nhà Vanga và rời đi với gương mặt nặng trĩu. Không có nhiều người tin vào tiên đoán của những nhà tiên tri. Tuy nhiên, người ta không thể làm ngơ khi những tiên đoán đó thành hiện thực. Vanga trở nên nổi tiếng vì những tiên đoán “thần thánh” của bà về những thảm họa toàn cầu. Độ chính xác của những lời tiên tri này khiến loài người giật mình hoài nghi: Liệu có thực sự tồn tại một thế lực siêu nhiên? Biết bao giấy mực đã cất công nghiên cứu để giải đáp về “bí ẩn Vanga”. Ví dụ, Vanga từng tiên đoán về vụ tấn công khủng bố ngày 11/9 ở Mỹ, khi bà nói rằng “người Mỹ sẽ ngã xuống dưới sự tấn công của những con chim sắt”. Nhà tiên tri cũng dự đoán chính xác sự bùng nổ Đại chiến thế giới thứ 2, cải tổ kinh tế chính trị ở Liên bang Xô Viết cũ, cái chết của công nương Diana và thậm chí vụ chìm tàu ngầm nguyên tử Kursk. Năm 1980, nhà tiên tri mù nói rằng: “Vào thời điểm chuyển giao thế kỷ, tháng 8 năm 1999 hoặc năm 2000, Krusk sẽ ngập chìm trong nước, cả thế giới sẽ đau buồn về điều này”. Ở thời điểm đó, người ta không mấy bận tâm đến lời tiên liệu trên. Tuy nhiên, 20 năm sau, loài người đã phải sững sờ kinh ngạc. Một tàu ngầm nguyên tử của Nga gặp nạn tháng 8/2000. Toàn bộ thủy thủ đoàn bỏ mạng dưới đáy đại dương. Và kỳ lạ thay, con tàu xấu số được đặt theo chính tên thành phố Krusk. Các chuyên gia thấy rằng nhà tiên tri huyền thoại này đã đưa ra những cảnh báo chính xác về các sự kiện liên quan đến căng thẳng vũ trang ở Nam Ossetia. Vanga nói chiến tranh thế giới thứ ba là hệ quả tất yếu của sự đấu tranh sinh tồn giữa bốn người đứng đầu các chính phủ và sự xung đột của những người theo đạo Hinđu. Nhân loại liệu có đứng trước một thảm họa nữa không khi Vanga dự đoán chiến tranh thế giới thứ 3 sẽ nổ ra vào năm 2010. Cuộc đời là những thước phim Vanga không biết chữ, bà cũng chưa từng viết một cuốn sách nào. Giọng nói của bà rất khó nghe và nặng thổ ngữ. Những gì Vanga nói hoặc được cho là do bà tiên đoán chủ yếu được ghi chép lại bởi những người xung quanh bà. Sau này, vô số những quyển sách bí truyền về cuộc đời và những tiên đoán của Vanga đã được viết ra. Theo Vanga thì khả năng phi thường của bà liên quan đến sự hiện diện của những sinh vật vô hình, dù bà không thể giải thích rõ ràng nguồn gốc của chúng. Những sinh vật đó cho bà thông tin về con người. Cuộc sống của tất cả mọi người đứng trước bà hiển hiện giống như những thước phim từ lúc sinh ra đến khi nằm xuống. Tuy nhiên bà không có quyền năng thay đổi số phận. Vanga từng dự đoán về những đứa trẻ mới chào đời và cả những sinh linh chưa ra đời. Bà cũng tuyên bố rằng bà đang “nhìn thấy” và “nói chuyện” với những người đã chết cách đây hàng trăm năm. Vanga thậm chí bảo rằng những người ngoài hành tinh đã đang sống trên trái đất từ rất lâu rồi. Họ đến từ những hành tinh mà ở đó dùng thứ ngôn ngữ Vamfirm. Những người theo Vanga tin rằng bà biết chính xác ngày chết của mình. Và chỉ không lâu trước ngày đó, bà nói có một cô bé tóc vàng 10 tuổi sống ở Pháp sẽ thừa hưởng những khả năng trời phú của bà, và rằng loài người sẽ sớm tìm ra cô bé đó. Những lời tiên đoán kinh hoàng về tương lai! Theo lời của Vanga, trong tương lai không xa sẽ xảy ra các vụ mưu sát 4 nhà lãnh đạo chính phủ. Những cuộc xung đột ở Indostan (phần đất ở Nam Á bao gồm Ấn Độ, Afghanistan, Pakistan, Trung Quốc, Tây Tạng) sẽ là một trong những nguyên nhân chính mở màn cho cuộc chiến tranh thế giới thứ 3.
Năm 2010 - Năm bắt đầu cuộc chiến tranh thế giới thứ 3. Cuộc chiến tranh này sẽ bắt đầu vào tháng 11/2010 và kết thúc vào tháng 10/2014. Ban đầu, cuộc chiến tranh diễn ra bình thường, tiếp đó sẽ xuất hiện hàng loạt vũ khí hạt nhân và cuối cùng là vũ khí hóa học.
Năm 2018 - Trung Quốc sẽ trở thành cường quốc thế giới mới. Những nước phát triển sẽ trở thành kẻ bóc lột các nước khác từ việc khai thác các nguồn tài nguyên khoáng sản.
Năm 2023 - Quỹ đạo Trái đất thay đổi.
Năm 2025 - Xuất hiện một bộ phận nhỏ người di cư đến Châu Âu.
Năm 2028 - Loài người sẽ tạo ra một nguồn năng lượng mới, kiểm soát được các phản ứng nhiệt hạch và nạn đói dần dần được khắc phục. Cũng trong thời gian này, con tàu vũ trụ có người lái lần đầu tiên sẽ đổ bộ lên sao Kim.
Năm 2033 - Băng ở các vùng cực sẽ tan chảy. Mực nước ở Thái Bình Dương sẽ dâng cao.
Năm 2043 - Nền kinh tế thế giới phát triển rất phồn thịnh. Người Hồi giáo sẽ cai trị toàn bộ lãnh thổ Châu Âu.
Năm 2046 - Bất kỳ cơ quan nào trong cơ thể người điều có thể được tiến hành cấy ghép. Việc thay thế các cơ quan trong cơ thể sẽ trở thành một trong những phương pháp chữa bệnh hữu hiệu nhất.
Năm 2066 - Trong lúc tấn công thành Roma của người hồi giáo, Mỹ sẽ lợi dụng một loại hình vũ khí mới - vũ khí thời tiết. Trong thời gian này, trời trở lạnh đột ngột.
Năm 2076 - Xã hội không giai cấp hay còn gọi là Chủ nghĩa Cộng sản hình thành.
Năm 2084 - Loài người Sẽ khôi phục lại thiên nhiên.
Năm 2088 - Xuất hiện một căn bệnh lạ “lão hóa chỉ trong vài giây!!!”.
Năm 2097 - Căn bệnh lão hóa khủng khiếp này sẽ lan tràn trên toàn cầu.
Năm 2100 - Loài người sẽ tạo ra những mặt trời nhân tạo chiếu sáng phần tối của quả đất.
Năm 2111 - Con người sẽ trở nên kiệt sức.
Năm 2123 - sẽ xảy ra các cuộc chiến tranh giữa những nước nhỏ.
Năm 2125 - Tại Hung-ga-ri, người ta sẽ nhận được những tín hiệu lạ từ vũ trụ. Cùng thời gian này, loài người lại một lần nữa tưởng nhớ về nữ tiên tri Vanga.
Năm 2130 - Nhiều vùng đất sẽ bị ngập trong nước.
Năm 2164 - Con người sẽ biến thành một loài động vật kinh dị (nửa người, nửa thú).
Năm 2167 - Xuất hiện tôn giáo mới.
Năm 2170 - Xảy ra một đợt hạn hán kéo dài trên Trái đất.
Năm 2187 - Hai miệng núi lửa lớn nhất thế giới sẽ ngừng quá trình phun trào nham thạch.
Năm 2195 - Những quốc gia dọc bờ biển sẽ trở nên khá giả cả về năng lượng lẫn lương thực.
Năm 2196 - Người Châu Á và Châu Âu sẽ sinh sống trà trộn nhau.
Năm 2201 - Quá trình phản ứng nhiệt hạch trên Mặt trời sẽ chấm dứt và bắt đầu thời kỳ nguội lạnh.
Năm 2221 - Trong quá trình tìm kiếm sự sống ngoài Trái đất, loài người sẽ có cuộc chạm trán rùng rợn.
Năm 2256 - Tàu vũ trụ mang một căn bệnh khủng khiếp về Trái đất.
Năm 2262 - Quỹ đạo của các hành tinh dần bị thay đổi. Cũng thời gian này, sao Chổi sẽ đe dọa đến sự sống còn của sao Hỏa. Năm 2271 - Các hằng số vật lý lại một lần nữa bị thay đổi.
Năm 2273 - Xảy ra sự xáo trộn giữa các chủng tộc da màu: da vàng, da trắng và da đen. Tiếp đó sẽ xuất hiện các chủng tộc mới. Năm 2279 - Loài người sẽ lấy năng lượng từ khoảng chân không hoặc từ những lỗ đen.
Năm 2288 - Xuất hiện những cuộc va chạm với người ngoài hành tinh.
Năm 2291 - Mặt trời trở nên nguội lạnh và sau đó lại bùng cháy trở lại.
Năm 2296 - Mặt trời hoạt động mạnh hơn, lực hút vũ trụ bị thay đổi làm cho các trạm vũ trụ và vệ tinh rơi vào tình trạng hỗn loạn, mất phương hướng.
Năm 2299 - Tại Pháp xuất hiện một Đảng mới chống lại người theo Đạo hồi.
Năm 2302 - Phát hiện quy luật và bí mật mới của vũ trụ.
Năm 2304 - Khám phá bí mật Mặt trăng Năm 2341 - Xuất hiện một thiên thể vô cùng nguy hiểm tiến gần Trái đất.
Năm 2354 - Một trong những mặt trời nhân tạo bị hỏng, kết quả dẫn tới đợt hạn hán kéo dài.
Năm 2371 - Xẩy ra nạn đói lớn.
Năm 2378 - Các bộ tộc mới nhanh chóng được hình thành.
Năm 2480 - Hai mặt trời nhân tạo va vào nhau, Trái đất bị rơi vào tình trạng hỗn loạn.
Năm 3005 - Xuất hiện các “cuộc chiến” mới trên sao Hỏa, quỹ đạo của các hành tinh bị rối loạn.
Năm 3010 - Sao chổi sẽ va vào Mặt trăng, quanh Trái đất lúc này xuất hiện một vành đai toàn đá và bụi.
Năm 3797 - Đây là thời kỳ kết thúc sự sống trên Trái đất. Thời gian này cũng là cơ sở để loài người bắt đầu cuộc sống mới trên một “hệ Mặt trời” khác.
Vanga sinh ngày 31/1/1911, mất ngày 11/8/1996. Bà sống ẩn dật cả đời ở vùng hẻo lánh Kozhuth thuộc Petrich, Bungary. Vanga mất thị lực năm 12 tuổi sau khi bị cuốn đi bởi một cơn lốc lớn. Người ta tìm thấy cô gái nhỏ vẫn còn thoi thóp hơi thở nằm vùi lấp giữa bụi và đá, hai hốc mắt chứa đầy cát. Vanga làm bạn với bóng tối từ đó. Lời tiên tri đầu tiên của Vanga được ghi nhận là vào năm bà 16 tuổi. Bà giúp cha mình tìm lại bầy cừu bị mất trộm bằng cách mô tả chính xác về cái sân nơi bọn trộm cất giấu đàn gia súc. Tuy nhiên, khả năng tiên tri của Vanga chỉ thực sự đạt đến độ chín năm 30 tuổi. Nhiều người tìm đến bà để xin những lời tiên tri. Trong đó có cả “kẻ hủy diệt” Adolf Hitler. Hitler từng ghé thăm nhà Vanga và rời đi với gương mặt nặng trĩu. Không có nhiều người tin vào tiên đoán của những nhà tiên tri. Tuy nhiên, người ta không thể làm ngơ khi những tiên đoán đó thành hiện thực. Vanga trở nên nổi tiếng vì những tiên đoán “thần thánh” của bà về những thảm họa toàn cầu. Độ chính xác của những lời tiên tri này khiến loài người giật mình hoài nghi: Liệu có thực sự tồn tại một thế lực siêu nhiên? Biết bao giấy mực đã cất công nghiên cứu để giải đáp về “bí ẩn Vanga”. Ví dụ, Vanga từng tiên đoán về vụ tấn công khủng bố ngày 11/9 ở Mỹ, khi bà nói rằng “người Mỹ sẽ ngã xuống dưới sự tấn công của những con chim sắt”. Nhà tiên tri cũng dự đoán chính xác sự bùng nổ Đại chiến thế giới thứ 2, cải tổ kinh tế chính trị ở Liên bang Xô Viết cũ, cái chết của công nương Diana và thậm chí vụ chìm tàu ngầm nguyên tử Kursk. Năm 1980, nhà tiên tri mù nói rằng: “Vào thời điểm chuyển giao thế kỷ, tháng 8 năm 1999 hoặc năm 2000, Krusk sẽ ngập chìm trong nước, cả thế giới sẽ đau buồn về điều này”. Ở thời điểm đó, người ta không mấy bận tâm đến lời tiên liệu trên. Tuy nhiên, 20 năm sau, loài người đã phải sững sờ kinh ngạc. Một tàu ngầm nguyên tử của Nga gặp nạn tháng 8/2000. Toàn bộ thủy thủ đoàn bỏ mạng dưới đáy đại dương. Và kỳ lạ thay, con tàu xấu số được đặt theo chính tên thành phố Krusk. Các chuyên gia thấy rằng nhà tiên tri huyền thoại này đã đưa ra những cảnh báo chính xác về các sự kiện liên quan đến căng thẳng vũ trang ở Nam Ossetia. Vanga nói chiến tranh thế giới thứ ba là hệ quả tất yếu của sự đấu tranh sinh tồn giữa bốn người đứng đầu các chính phủ và sự xung đột của những người theo đạo Hinđu. Nhân loại liệu có đứng trước một thảm họa nữa không khi Vanga dự đoán chiến tranh thế giới thứ 3 sẽ nổ ra vào năm 2010. Cuộc đời là những thước phim Vanga không biết chữ, bà cũng chưa từng viết một cuốn sách nào. Giọng nói của bà rất khó nghe và nặng thổ ngữ. Những gì Vanga nói hoặc được cho là do bà tiên đoán chủ yếu được ghi chép lại bởi những người xung quanh bà. Sau này, vô số những quyển sách bí truyền về cuộc đời và những tiên đoán của Vanga đã được viết ra. Theo Vanga thì khả năng phi thường của bà liên quan đến sự hiện diện của những sinh vật vô hình, dù bà không thể giải thích rõ ràng nguồn gốc của chúng. Những sinh vật đó cho bà thông tin về con người. Cuộc sống của tất cả mọi người đứng trước bà hiển hiện giống như những thước phim từ lúc sinh ra đến khi nằm xuống. Tuy nhiên bà không có quyền năng thay đổi số phận. Vanga từng dự đoán về những đứa trẻ mới chào đời và cả những sinh linh chưa ra đời. Bà cũng tuyên bố rằng bà đang “nhìn thấy” và “nói chuyện” với những người đã chết cách đây hàng trăm năm. Vanga thậm chí bảo rằng những người ngoài hành tinh đã đang sống trên trái đất từ rất lâu rồi. Họ đến từ những hành tinh mà ở đó dùng thứ ngôn ngữ Vamfirm. Những người theo Vanga tin rằng bà biết chính xác ngày chết của mình. Và chỉ không lâu trước ngày đó, bà nói có một cô bé tóc vàng 10 tuổi sống ở Pháp sẽ thừa hưởng những khả năng trời phú của bà, và rằng loài người sẽ sớm tìm ra cô bé đó. Những lời tiên đoán kinh hoàng về tương lai! Theo lời của Vanga, trong tương lai không xa sẽ xảy ra các vụ mưu sát 4 nhà lãnh đạo chính phủ. Những cuộc xung đột ở Indostan (phần đất ở Nam Á bao gồm Ấn Độ, Afghanistan, Pakistan, Trung Quốc, Tây Tạng) sẽ là một trong những nguyên nhân chính mở màn cho cuộc chiến tranh thế giới thứ 3.
Năm 2010 - Năm bắt đầu cuộc chiến tranh thế giới thứ 3. Cuộc chiến tranh này sẽ bắt đầu vào tháng 11/2010 và kết thúc vào tháng 10/2014. Ban đầu, cuộc chiến tranh diễn ra bình thường, tiếp đó sẽ xuất hiện hàng loạt vũ khí hạt nhân và cuối cùng là vũ khí hóa học.
Năm 2018 - Trung Quốc sẽ trở thành cường quốc thế giới mới. Những nước phát triển sẽ trở thành kẻ bóc lột các nước khác từ việc khai thác các nguồn tài nguyên khoáng sản.
Năm 2023 - Quỹ đạo Trái đất thay đổi.
Năm 2025 - Xuất hiện một bộ phận nhỏ người di cư đến Châu Âu.
Năm 2028 - Loài người sẽ tạo ra một nguồn năng lượng mới, kiểm soát được các phản ứng nhiệt hạch và nạn đói dần dần được khắc phục. Cũng trong thời gian này, con tàu vũ trụ có người lái lần đầu tiên sẽ đổ bộ lên sao Kim.
Năm 2033 - Băng ở các vùng cực sẽ tan chảy. Mực nước ở Thái Bình Dương sẽ dâng cao.
Năm 2043 - Nền kinh tế thế giới phát triển rất phồn thịnh. Người Hồi giáo sẽ cai trị toàn bộ lãnh thổ Châu Âu.
Năm 2046 - Bất kỳ cơ quan nào trong cơ thể người điều có thể được tiến hành cấy ghép. Việc thay thế các cơ quan trong cơ thể sẽ trở thành một trong những phương pháp chữa bệnh hữu hiệu nhất.
Năm 2066 - Trong lúc tấn công thành Roma của người hồi giáo, Mỹ sẽ lợi dụng một loại hình vũ khí mới - vũ khí thời tiết. Trong thời gian này, trời trở lạnh đột ngột.
Năm 2076 - Xã hội không giai cấp hay còn gọi là Chủ nghĩa Cộng sản hình thành.
Năm 2084 - Loài người Sẽ khôi phục lại thiên nhiên.
Năm 2088 - Xuất hiện một căn bệnh lạ “lão hóa chỉ trong vài giây!!!”.
Năm 2097 - Căn bệnh lão hóa khủng khiếp này sẽ lan tràn trên toàn cầu.
Năm 2100 - Loài người sẽ tạo ra những mặt trời nhân tạo chiếu sáng phần tối của quả đất.
Năm 2111 - Con người sẽ trở nên kiệt sức.
Năm 2123 - sẽ xảy ra các cuộc chiến tranh giữa những nước nhỏ.
Năm 2125 - Tại Hung-ga-ri, người ta sẽ nhận được những tín hiệu lạ từ vũ trụ. Cùng thời gian này, loài người lại một lần nữa tưởng nhớ về nữ tiên tri Vanga.
Năm 2130 - Nhiều vùng đất sẽ bị ngập trong nước.
Năm 2164 - Con người sẽ biến thành một loài động vật kinh dị (nửa người, nửa thú).
Năm 2167 - Xuất hiện tôn giáo mới.
Năm 2170 - Xảy ra một đợt hạn hán kéo dài trên Trái đất.
Năm 2187 - Hai miệng núi lửa lớn nhất thế giới sẽ ngừng quá trình phun trào nham thạch.
Năm 2195 - Những quốc gia dọc bờ biển sẽ trở nên khá giả cả về năng lượng lẫn lương thực.
Năm 2196 - Người Châu Á và Châu Âu sẽ sinh sống trà trộn nhau.
Năm 2201 - Quá trình phản ứng nhiệt hạch trên Mặt trời sẽ chấm dứt và bắt đầu thời kỳ nguội lạnh.
Năm 2221 - Trong quá trình tìm kiếm sự sống ngoài Trái đất, loài người sẽ có cuộc chạm trán rùng rợn.
Năm 2256 - Tàu vũ trụ mang một căn bệnh khủng khiếp về Trái đất.
Năm 2262 - Quỹ đạo của các hành tinh dần bị thay đổi. Cũng thời gian này, sao Chổi sẽ đe dọa đến sự sống còn của sao Hỏa. Năm 2271 - Các hằng số vật lý lại một lần nữa bị thay đổi.
Năm 2273 - Xảy ra sự xáo trộn giữa các chủng tộc da màu: da vàng, da trắng và da đen. Tiếp đó sẽ xuất hiện các chủng tộc mới. Năm 2279 - Loài người sẽ lấy năng lượng từ khoảng chân không hoặc từ những lỗ đen.
Năm 2288 - Xuất hiện những cuộc va chạm với người ngoài hành tinh.
Năm 2291 - Mặt trời trở nên nguội lạnh và sau đó lại bùng cháy trở lại.
Năm 2296 - Mặt trời hoạt động mạnh hơn, lực hút vũ trụ bị thay đổi làm cho các trạm vũ trụ và vệ tinh rơi vào tình trạng hỗn loạn, mất phương hướng.
Năm 2299 - Tại Pháp xuất hiện một Đảng mới chống lại người theo Đạo hồi.
Năm 2302 - Phát hiện quy luật và bí mật mới của vũ trụ.
Năm 2304 - Khám phá bí mật Mặt trăng Năm 2341 - Xuất hiện một thiên thể vô cùng nguy hiểm tiến gần Trái đất.
Năm 2354 - Một trong những mặt trời nhân tạo bị hỏng, kết quả dẫn tới đợt hạn hán kéo dài.
Năm 2371 - Xẩy ra nạn đói lớn.
Năm 2378 - Các bộ tộc mới nhanh chóng được hình thành.
Năm 2480 - Hai mặt trời nhân tạo va vào nhau, Trái đất bị rơi vào tình trạng hỗn loạn.
Năm 3005 - Xuất hiện các “cuộc chiến” mới trên sao Hỏa, quỹ đạo của các hành tinh bị rối loạn.
Năm 3010 - Sao chổi sẽ va vào Mặt trăng, quanh Trái đất lúc này xuất hiện một vành đai toàn đá và bụi.
Năm 3797 - Đây là thời kỳ kết thúc sự sống trên Trái đất. Thời gian này cũng là cơ sở để loài người bắt đầu cuộc sống mới trên một “hệ Mặt trời” khác.
4 nhận xét:
CHỚ BỎ QUA CÁC LỚI TIÊN TRI! NHÀ TIÊN TRI LÀ NGƯỜI CÓ KHẢ NĂNG "ĐỌC" ĐƯỢC TƯƠNG LAI NHỜ MỘT KHẢ NĂNG ĐẶC BIỆT TRỜI PHÚ CHO! BẠN DÙ MUỐN CŨNG KHÔNG THỂ CÓ ĐƯỢC NẾU DUYÊN PHẦN KHÔNG PHẢI LÀ CỦA BẠN!
TIÊN TRI- LUÔN LÀ ƯỚC VỌNG CỦA CON NGƯỜI!
TIÊN TRI LÀ KHOA HỌC DỰ ĐOÁN
BẠN CÓ THỂ ĐỌC THẤY NHỮNG CÂU SẤM TRẠNG TRÌNH ỨNG NGHIỆM ĐÚNG THỜI SỰ NGÀY NAY
Đăng nhận xét